Giới thiệu và chú giải của Nguyễn Văn Sâm
tặng và cám ơn LMT
Chắc chắn rằng hai tác phẩm Quả Phụ Ngâm đã tạo nên cảm hứng trực tiếp cho những bản văn khóc chồng, khóc vợ nổi tiếng trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20 là Giọt Lệ Thu (1928) của nữ sĩ Tương Phố và Linh Phượng (1934) của thi sĩ Đông Hồ. Sự kiện chết chồng chết vợ của hai vị nầy chỉ là những giọt nước tràn ly để những cảm xúc được thành văn.
Cách nay chừng 3 tháng (10, 2020) một người trẻ ở Việt Nam giới thiệu trên fb cuốn Bần Nữ Thán mà anh thủ đắc đã lâu. Qua cái bìa sách thấy có giới thiệu phụ bản bài Quả Phụ Ngâm, tôi tò mò hỏi xin để có được văn bản nầy. Anh bạn vui lòng cung cấp và khi nghe tôi có ý muốn viết gì đó về bản văn chưa được nhiều người biết kia, anh đã vui lòng đánh máy y theo nguyên văn.
Nay xin có vài dòng giới thiệu để bản văn nầy khỏi mai một. Xin gởi lời cám ơn đến anh bạn trên fb mà tôi chưa tiện nói tên vì chưa được phép.
Bài ngâm nầy viết theo thể song thất lục bát. Trau chuốt, diễn tả được nỗi buồn của người cô phụ trẻ, có thể được gọi là một tác phẩm giá trị so sánh được với bài Ai Tư Vãn của Ngọc Hân Công Chúa, tiếc là chưa sách nào nói tới nên ở trong bóng tối bấy lâu nay. Tôi cho rằng người đưa ra tài liệu nầy – chỉ biết là nhà in Phúc chi, Hàn Nội – đã phiên âm theo bản Nôm nào đó viết từ cuối thế kỷ 19, thời có những bài văn với nội dung thương nhớ, than khóc tương tợ: Chinh Phụ Ngâm, Chinh Phu Ngâm, Bần Nữ Thán, Cung Oán Ngâm Khúc, Ai Tư vãn, Tần Cung Nữ Oán Bái Công phú…
Trang mạng Thư Viện Quốc Gia Hà Nội cho biết có 3 ấn phẩm Quốc ngữ Quả Phụ Ngâm:
- Quả Phụ Ngâm, tác giả Nguyễn Thúc Khiêm, xuất bản Phúc Vạn Hiệu, Hà Nội 1928
- Quả Phụ Ngâm, tác giả NguyễnThúc Khiêm, nhà in Nhật Hưng, Hà Nội 1932. ( Tái bản của cuốn 1 nói trên.)
- Quả Phụ Ngâm, tác giả Nguyễn Ngọc Hòa, nhà in Quảng Thịnh, Hà Nội, 1935.
Vậy thì có hai (02) bài Quả Phụ Ngâm khác nhau của hai tác giả theo tài liệu trên.
Cho tới cuối năm 2020 tôi chưa thấy được toàn văn mấy quyển nầy vì Thư Viện Quốc Gia Hà Nội vẫn còn đang chứa ở dạng microfilm từ trước 1954 khi người Pháp trao chánh quyền lại cho chánh phủ Hà Nội 1954 tới giờ.
Đầu năm 2021, vô trang mạng của Thư Viện Quốc Gia Pháp thì thấy cả hai cuốn 1 và 2 của Tú Tài Nguyễn Thúc Khiêm mà không thấy cuốn 3 của Nguyễn Ngọc Hòa.
Quả Phụ Ngâm của Nguyễn Thúc Khiêm lại khác với bản mà chúng tôi đang khảo sát. Vậy có thể giả thiết rằng bản nầy là của Nguyễn Ngọc Hòa với sự dè dặt thiết yếu.
Bèn tẩn mẩn viết mấy dòng cùng chú giải vài ba từ khó hiểu đối với người trẻ bây giờ.
Ai là tác giả cũng cần phải có thời gian đến khi thấy tận mắt cuốn của ông Nguyễn Ngọc Hoà với những giải quyết từ các vấn đề sẽ được đưa ra.
Chắc chắn rằng hai tác phẩm Quả Phụ Ngâm đã tạo nên cảm hứng trực tiếp cho những bản văn khóc chồng khóc vợ nổi tiếng trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20 là Giọt Lệ Thu (1928) của nữ sĩ Tương Phố và Linh Phượng (1934) của Đông Hồ. Sự kiện chết chồng chết vợ chỉ là những giọt nước tràn ly để những cảm xúc được thành văn.
Và Tương Phố cùng Đông Hồ sở dĩ được nhiều người biết là vì bài của các vị ấy được đăng bài trên báo Nam Phong, hai ông Nguyễn Thúc Khiêm và Nguyễn Ngọc Hòa không được ai nhắc tới sau thời gian xuất bản sách – dầu ông Nguyễn Thúc Khiêm tái bản tác phẩm mình ít nhứt là tới lần thứ năm. Ảnh hưởng của báo Nam Phong thêm một lần nữa chứng minh sức mạnh của nó. Kinh khủng.
Bài văn thống thiết, nói lên nhiều điều bi thương cũng như cuộc sống dật dờ, muốn chết mà không thể chết của người cô phụ, đáng được phổ biến và khảo sát tường tận.
Ghi chú: Bản văn dùng những từ ngữ rặc ròng miền Bắc những năm đầu của thế kỷ 20 nay đã mất thế đứng và nhiều khi lạ lẫm với lớp trẻ ngày nay, thỉnh thoảng chúng tôi chú thích mà không sửa lại.
(NVS. Victorville, CA 31, Jan, 2021)
Khói chiều tỏa sương thu lạnh ngắt
Gió heo may hiu hắt dật dờ
Trông ra non nước mịt mờ
Trước lầu sương phủ thẫn thờ chiếc thân
Tơ duyên rứt nợ nần đeo đẳng
Cảnh cô đơn nỗi đắng niềm cay
Chàng về quán nước làng mây
Để em vò võ tháng ngày nhớ thương
Vóc mai gầy, tuyết sương như ghẹo
Tấm can tràng khô héo vì ai
Thơ ngây nhớ lại những ngày
Nhụy vàng hoa thắm tặng người tình trung
Lời ước hẹn biển đông tát cạn
Trên đường đời gió cát xông pha
Khi buổi sớm lúc giăng tà
Như chim liền cánh, như hoa liền cành
Mảnh vui độ đầu xanh tuổi trẻ
Nào ngờ điều dâu bể đa đoan
Nào ngờ trâm gẫy gương tan
Đàn đương lựa phiếm giây loan lại trùng,
Thương thân thế tơ lòng dường dứt
Ngán tình duyên sầu chất nên non
Đắng cay như ngậm bồ hòn
Biệt ly đâu biết rằng cơn cớ này
Trăm năm chẳng vẹn ngày đầu bạc
Muôn kiếp còn ghi tạc ái ân
Chàng đi xa lánh cõi trần
Việc đời chút gánh nợ nần cho nhau
Nhớ lại buổi bắc cầu Ô thước;
Giải Ngân giang giòng nước còn tăm,
Cùng nhau tính cuộc trăm năm
Đèn khuya chung, bóng trăng rằm sánh vai.
Nào lúc dạo hiên mai hóng gió,
Nào khi xem liễu rủ bên hồ
Chàng buồn em cũng ngẩn ngơ
Chàng vui em cũng cười đùa vui chung.
Nào lúc đốt đèn trong đêm vắng
Đem lời vàng sốt sắng khuyên nhau
Xiết bao ý hợp tâm đầu
Gương mình soi tỏ mặt nhau bấy giờ.
Có lúc đọc câu thơ vịnh nguyệt
Miệng em ngâm chàng viết nên tờ
Chàng buồn vẻ mặt thẩn thờ
Nhìn em em những ngẩn ngơ vì tình
Có lúc truyện tâm tình trên gối
Đem nỗi lòng tỏ rãi cùng nhau
Có khi trong lúc đêm thâu
Khuyên chàng học tập để sau giúp đời
Có lúc giở cuộc chơi tao nhã
Lựa ngón đàn thong thả nắn cung
Chàng đàn em hát não nùng
Tơ lòng hòa với tơ đồng sôn sao
Cuộc đời qua xiết bao vui thú
Nào ngờ đâu lại có ngày nay
Lẻ đàn chiếc nhạn trông mây
Chàng ơi! Thấu nỗi nước này hay không
Duyên tơ tóc những mong bền chặt
Trời xanh kia nỡ cắt làm đôi
Giữa đường đứt gánh than ôi!
Chút thân góa bụa ngậm ngùi sương khuê
Đứt ruột tầm tơ chia trăm mối
Sầu biệt ly lắm nỗi đau lòng
Ngoài hiên bảng lảng thu phong
Càng như dục khách cô phòng ưu tư
Biết nhau buổi thu sơ năm nọ
Biết nhau này xuân một năm qua
Chàng từ cưỡi hạc chơi xa
Thân em ủ rũ như hoa cuối mùa
Hoa rãi nắng chiều thu đã héo
Theo lá vàng hiểm nẻo lìa cây
Hẹn chàng đến kiếp sau này
Đừng làm hoa lá, làm mây lưng trời
Mây lưng trời, lửng lơ theo gió
Có hợp tan chẳng có phân ly
Hợp tan, tan hợp có kỳ
Còn hơn cái kiếp người kia ở đời
Chàng đã thấy kiếp người ngắn ngủi
Một năm đi là đuổi xuân về
Sáu mươi còn chẳng ra gì
Huống hồ nửa kiếp đã lìa thế gian
Kìa chiếc nhan lạc đàn khóc thảm
Buổi trời đông mây ám sương mờ
Thân em lẻ bạn bây giờ
Khác chi nhạn đó bơ vơ tìm đàn
Lạnh lùng chốn phòng loan bóng chếch,
Cảnh cô đơn tịch mịch ái hoài,
Trước thềm khóm liễu hàng mai.
Sương sa như khóc thương người lẻ loi
Bên kính thiếp người soi mệnh bạc
Làn tóc mây phờ phạc gió đưa
Đầu xanh duyên đứt đường tơ
Xót thân lệ thảm xuân mờ nước gương
Kìa như khách sông Tương thủa nọ
Kẻ đầu sông kẻ chỗ cuối sông
Thương nhau uống nước cùng giòng
Dù xa nhau vẫn ở trong cõi đời.
Chàng với thiếp khác người sông ấy
Từ chàng đi không thấy trở về
Suối vàng thế giới bên kia
Quá vui mộng cảnh chàng lìa nhân gian
Canh khuya lúc bàn hoàn tỉnh giấc
Nỗi niềm riêng thắc mắc nào ai
Ngoài hiên hiu hắt gió vàng
Gió như khua động can tràng đau thương
Trạnh nhớ lúc chung giường ân ái
Lời nhỏ to ôn lại niềm xưa
Chẳng qua là một giấc mơ
Mà người năm ngoái bây giờ còn đâu?
Nhớ chàng nhỏ giòng châu hoen gối
Mộng xưa còn theo giõi hồn em
Ước gì hóa được ra chim
Bay lên trời thẳm đi tìm phu quân
Lẽ huyền bí khôn phân hư thực
Thử nghiệm khi thức giấc mà coi
Có khi thấy bóng chàng ngồi
Âm dung phảng phất ở nơi dương trần
Hay số kiếp nợ nần từ trước
Mà duyên sau mây trước lững lờ
Sum vầy gọn một giấc mơ
Ba năm phu phụ một giờ âm dương
Chàng vui thú cầu sương điếm cỏ
Mảnh hồn tàn biết có hay chăng?
Để em than thở đãi đằng
Cho chàng ở dưới suối vàng được hay
Nay cõi suối đường mây rẽ lối
Khó đem ngày mà nối vào đêm
Kiếp người là kiếp ươn hèn.
Phải vâng số mệnh há nên trách trời!
Song riêng ngán cảnh đôi ta ấy
Ngày vui kia chưa mấy đã tàn
Kể từ thiếp bén duyên chàng
Vinh hoa chưa thấy, tân toan đã nhiều
Lúc canh khuya tầu tiêu gió lật
Tâm hồn trong phảng phất chiêm bao
Nhớ chàng tấc dạ xôn xao.
Toan bề ấp mận ôm đào như xưa
Khi chợt tỉnh giấc mơ vô giá
Mắt mở bừng tấc dạ bâng khuâng
Nghĩ thôi lòng lại ngại ngùng
Ngại cho kiếp sống không chồng lẻ loi
Trải ngày tháng sầu thôi lại tủi
Than cùng ai dằn dỗi cùng ai
Đang buông một tiếng thở dài
Chàng ơi ở chốn tuyền đài biết chăng?
Phòng hương lạnh vắng chàng một bóng,
Thôi từ đây biết ngóng trông ai.
Cõi trần vắng có một người,
Trông ra nước nước đất trời vắng teo.
Kiếp bạc mệnh sống theo nước mắt.
Hồ lệ đầy sống ắt còn lâu,
Bao giờ khóc ráo lệ sầu,
Bao giờ tóc trắng điểm đầu mới thôi,
Buồn nghĩ đến nỗi đời mà ngán.
Cảnh riêng mình lẻ bạn đau lòng.
Còn duyên gì nữa mà mong.
Đàn kia giây đứt chí hòng nối thêm?
Quyết thủ tiết một niềm khăn khắn,
Tình thiết tha như gắn keo sơn.
Trăm năm chút đá đỉnh non.
Lòng băng lọ ngọc chí mòn được đâu,
Dù đến buổi mái đầu sương nhuộm
Tấc lòng son chẳng nhuốm bạc đen,
Mặc đời dè bỉu ghét ghen.
Quyết không bợn thói nhỏ nhen thế thường
Đã lắm kẻ muốn vương tơ thắm,
Đã lắm người muốn ngắm đào phai,
Lòng này đâu có như ai.
Đời nhầm em chỉ mỉm cười cho qua
Dù tiền bạc hay là quyền thế,
Nếu không tình ai dễ yêu ai,
Khách tình đã khuất đi rồi.
Như thân đã xẻ làm đôi còn gì
Cơ tạo hóa vận thì bí mật
Mới lửa thiêng còn chất trong lòng.
Theo duyên ân ái đèo bòng.
Lòng nào mà chẳng mơ mòng phượng loan?
Song đã chót “đoạn tràng” nặng nợ,
Tuổi đầu xanh dang dở chút duyên,
Cầm như ván đã đóng thuyền,
Kiên trinh là phận thuyền quyên ở đời.
Dám bắt chước thói đời thay đổi,
Đứt giây dàn lại nối về sau.
Nợ tình chẳng giả cho nhau,
Còn chi là cái nghĩa sâu của người,
Thiếp quyết giữ trọn đời ở vậy,
Tạ lòng chàng từ bấy đến nay.
Tình sâu ân nặng nghĩa giầy,
Há rằng khuất mặt mà thay đổi lòng.
Duyên bèo nước đã không chọn vẹn,
Nợ gối chăn xin hẹn kiếp sau.
Cuộc đời bãi biển nương dâu,
Khối tình ta giữ với nhau cho bền.
Dù sau có ra miền tục lụy,
Mảnh gương kia nước thủy bao mờ.
Chút tình trong trắng ngây thơ,
Cam bề thủ tiết để thờ phu quân.
Nay xa cách âm dương đôi ngả,
Em khóc chàng lệ đã nhường khô.
Ngụ lòng lập một bàn thờ.
Đốt hương kể nỗi niềm xưa với chàng.
Tuy theo lệ ngày tang đã mãn,
Nhưng tình ta vô hạn thiết tha.
Mặc cho ngày tháng trôi qua,
Lòng này mượn bóng hằng nga soi cùng.
Trải những buổi sương đông nắng hạ
Lấy hoa tươi nước lã kính dâng
Gọi là trọn đạo luân thường
Dù mà lễ bạc mà tâm chí thành
Chàng ở chốn u minh có biết
Cõi lòng em bi thiết bấy lâu
Trông ra bể rộng sông sâu
Ai người lấp thảm quạt sầu cho đây
Trông lên trời làn mây tỏa trắng
Ngắm nơi xa đồng vắng mênh-mông
Nước mây cây núi trập-trùng
Em buồn cảnh cũng như lòng em đây
Cảnh ủ-rũ lầu tây ác lặn
Dạ bồi hồi ngày tháng nhớ thương
Từ đây gánh nặng đường-trường
Ngày đêm một nén tam hương khấn cầu
Ngày tháng tựa bóng câu qua cửa
Nhưng nỗi buồn biết thủa nào nguôi
Từ chàng vắng mặt khuất nhời
Gia-đường quạnh quẽ não người chiếc thân
Trên tuổi-tác nhà-huyên buồn-bã
Thường tuông châu tầm tã thở-than
Ngùi hương chốn-quế sân-lan
Bấy lâu thân-thể kiếm ăn võ-vàng
Em săn sóc đảm đang mọi việc
Cảnh gia đình thu xếp đã xong
Trên là từ-mẫu an lòng
Trong ngoài họ-mạc đều cùng ngợi khen
Việc buôn-bán đua-chen chẳng nản
Đã được lòng phường-bạn mến yêu
Gặp may mắn đủ trăm chiều
Bạc tiền nay cũng được nhiều hơn xưa
Ơn tổ ấm phúc dù được hưởng
Lại nhớ ngày phu-sướng phụ-tòng
Nhớ ngày hoa chúc động phòng
Nhớ ngày chàng-thiếp rãi-lòng yêu-thương
Nhớ ngày hãy chân-nông túng thiếu
Cảnh mẹ hiền con hiếu làm vui
Tạm vay đắp-đổi lần-hồi
Gian-lao tân khổ đủ đôi vợ chồng
Nay phú-quý không cùng chung hưởng
Dẫu đỉnh chung vui sướng mà chi
Đau lòng tử-biệt sinh-ly
Vui này dễ lấp buồn kia được nào
Ngày vắng vẻ tâm-bào héo-hắt
Đêm lạnh-lùng nước mắt thấm xa
Đôi phen ủ-rột nét hoa
Đôi phen muốn thác đi mà tìm nhau
Nhưng chữ hiếu, tính sao cho vẹn
Nên em đành dốc chén chua cay
Để đền ơn nặng nghĩa dầy
Thần-hôn định-tỉnh em thay cho chàng
Thôi duyên kiếp dở-dang đôi lứa
Than mà chi khóc nữa mà chi
Càng như gợi mối sầu bi
Trăm năm thôi còn có gì mà mong
Chàng chăng hỡi thấu lòng cho thiếp,
Xin vì chàng giữ tiết dám sai,
Ôm cầm chẳng quản thuyền ai
Dù cho vật đổi sao giời quản chi.
Chung