(Một Tài Liệu rất hữu ích để tham khảo! )
Gửi cho quý vị cùng xem bài dịch tiếng Việt cuốn sách của JILL TAYLOR nói về TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒi.
Tôi đặc biệt chú ý đến phần bà nói về hoạt động của ÓC TRÁI & TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI, rất chi tiết. Thưa quý vị,
Tôi rất cám ơn tất cả những vị đã dịch và chuyển đến tay tôi bài viết của bà bác sĩ thần kinh não bộ Jill Taylor, người bị tai biến mạch máu não (stroke hay AVC) năm 1996 và nay đã bình phục.
Tôi cũng đã là một nạn nhân của stroke cách đây 7 năm, nhưng ở trong số 83% (stroke ischemic, mạch máu não bị tắc), không như bà Jill Taylor trong số 17% (stroke hemorragic, mạch máu não bị vỡ).
Bài viết của bà BS Taylor đã hết sức đầy đủ cả về phương diện khoa học, lý trí đến phương diện tâm tâm lý, tâm linh. Tôi không thấy, và không dám, viết gì thêm về chuyện này. Tuy nhiên, có một số diểm, tôi không thấy nhắc đến trong chuyện này. Bởi vậy, tôi muốn trình bầy lại dưới đây để quý vị tùy nghi thẩm định:
1. Năm 1996 người ta chưa biết đến một phương thuốc mới trị stroke. Sau 2000, người ta đã tìm ra một phương thuốc để trị stroke, gọi là tPA, hay là tissue Plasmimogen Activator. Thuốc này chỉ hiệu nghiệm nếu bệnh nhân bị stroke được chữa trị trong vòng 3 hay 3 tiếng rưỡi đồng hồ mà thôi. Gần như khỏi hẳn. Sau đó, trễ hơn, vô phương cứu chữa.
Hồi tôi bị stroke, được con cháu mang vào một nhà thương có tiếng vùng tôi ở. Nhưng tại đó, sau khi tìm ra chắc chắn là tôi bị stroke (mất khá nhiều thì giờ), họ phải chuyên chở đến một nhà thương khác. Đến nơi thì đã quá trễ. Tôi đã bị stroke với tất cả những hậu quả của stroke, gần giống như những gì tả trong bài viết của BS Taylor.
Kết luận: Những ai thấy mình có thể bị stroke, xin hãy vào ngay bệnh viện thật sớm để được chữa trị ngay trong vòng ba bốn tiếng đồng hồ bằng tPA.
2. Stroke là một bệnh có tính cách di truyền. Trong gia đình nếu thấy có người bị stroke rồi thì anh em, hoặc con cái (như gia đình tôi) rất có thể cũng sẽ bị stroke.
Kết luận: Trong trường hợp này, phải hết sức cẩn thận, trong việc ăn uống thuốc men, mục đích để giảm thiểu cholesterol, áp huyết cao, tiểu đường hay tiền-tiểu đường.., kể cả trong việc giữ gìn sức khỏe (tập thể dục, đi bộ mỗi ngày…)
3. Tôi tin rằng vận động thân thể cũng như luyện tập trí óc là một phần không thể thiếu trong việc phòng ngừa bị stroke cũng như sớm hồi phục sau khi bị stroke. Tôi có một ông anh rể, bác sĩ về thần kinh não bộ như bà Jill Taylor, năm nay đã 80 tuổi, vẫn chạy marathon, mỗi lần đến chơi, tôi thấy cầm một cuốn sách Hán Văn Tự Học, đôi khi lại đem một phương trình Vi Phân và Tích Phân (calcul differentiel et integral) ra hỏi chúng tôi. Anh tôi nói rằng, tuy đã có tuổi, mình vẫn phải học, học đi học lại cho trí óc dược minh mẫn khỏi bị cùn lụt đi, vẫn phải tập thể dục mỗi ngày. Thấy tôi hàng ngày lên mạng, viết “blog”, anh tôi cho rằng đó là một việt rất nên làm mặc dầu bị bà xã (em gái ông ta) quở trách.
Đó là một vài lời thô thiển để góp ý với tất cả mọi người, với lòng tri ân đến tất cả những vị đã dịch và chuyển đến tay tôi bài viết của bà bác sĩ thần kinh não bộ Jill Taylor.
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI
Tác Giả : TS Jill Bolte Taylor
Dịch Giả : TS Minh Tâm
Đôi Giòng Tâm Sự
Mỗi bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ óc tôi…Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại Học Y Khoa Harvard, chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ từ chính bộ óc của mình.
Sáng hôm ấy, bản thân tôi đã trãi qua một dạng “đứt mạch máu não” rất ít khi có, từ bán cầu Trái của não bộ. Sự xuất huyết trầm trọng này là do một mạch máu não bất thưòng từ lúc sơ sinh đã không được khám nghiệm và cắt bỏ, nay thình lình vỡ ra. Trong bốn tiếng đồng hồ ngắn ngủi, với đôi mắt kinh nghiệm của một nhà nghiên cứu tế bào não bộ học, tôi đã chứng kiến bộ óc tôi từ từ băng hoại đến độ hoàn toàn tê liệt trong khả năng phân định các sự kiện diễn biến chung quanh. Đến cuối sáng hôm đó, tôi đã không còn có thể đi đứng, ăn nói, đọc viết hoặc nhớ lại những gì đã xảy ra từ trước trong đời. Nằm vo tròn như một thai nhi trong bụng mẹ, tôi cảm giác mình sắp chết, không còn chút hỉ vọng nào có thể sống sót để kể lại câu chuyện này cho bất kỳ ai.
Những điều cần biết về Tai biến mạch máu não là một tài liệu khoa học
được ghi lại theo thứ tự thòi gian. Và cũng theo đó, từ vực thẳm vô hình
của một đầu óc hoàn toàn rỗng lặng, tôi đã khám phá ra sự an tĩnh của
nội tâm mà những nhà khoa học não bộ như tôi không mấy khi có dịp trãi
nghiệm. Như tôi được biết, đây là tài liệu lần đầu tiên được ghi lại từ
một nhà Tế bào thần kinh học, qua kinh nghiệm bản thân mình, sau khi đã
phục hồi vì một cơn xuất huyết não trầm trọng. Tôi rất vui mừng vì tập
tài liệu này cuối cùng đã được in ra và phổ biến khắp thế giới để mọi
người có thể biết mà chạy chữa đúng lúc và đúng cách.
Hơn tất cả mọi thứ trên đời, tôi rất biết ơn Thượng đế đã cho tôi cơ hội
sống còn và ca ngợi sư hiện hữu hôm nav. Ban đầu, tôi được khuyến khích
để vượt qua bạo bệnh và phục hồi là nhờ vào những người có lòng gửi cho
các lá thư tràn đầy tình yêu thương vô bờ bến. Rồi qua nhiều năm, tôi
vẫn kiên trì trong nỗ lực phục hồi, do vì biết bao câu hỏ gửi đến chưa
được trả lời. Như một phụ nữ trẻ đã gửi
thư hỏ tôi rằng: Tại sao bà mẹ của cô khi bị tai biến mạch máu não mà
không thể tự mình gọi điện thoại cấp cứu, nên đã Phải chết? (Người Mỹ
không có thói quen khỉ con cái đã trưỏng thành mà còn ỏ chung nhà với
cha mẹ.), hay một người đàn ông lớn tuổi khác, vẫn còn mãi đau buồn về
cái chết của bà vợ, đã hỏi:Vì sao tai biến mạch máu não đã làm bà phai
nằm mê man bất động cho đến khi qua đời?
Rồi thư của những người chăm sóc bệnh nhân tai biến não hỏ tôi về đưòng
hướng và hi vọng trong sự điều trị. Cho nên tôi đã quyết tâm hoàn tất
tập tài liệu này cho 700 ngàn người bị tai biến não hằng năm trong xã
hội ta. Chỉ cần một người đọc chương “Buổi sáng ngày bị tai biến” để
nhận diện được triệu chứng nguy cấp, rồi gọi ngay cấp cứu – gọi liền chứ
không nên trễ, để cứu một mạng người – thì
những công sức tôi đã bỏ ra để viết quyển sách này kể như đã được đền bù xứng đáng.
Quyển sách này đươc chia ra làm bốn Phần
I. Phần một nói về cuộc đời tôi trước khi Xuất huyết não xảy ra. Bạn sẽ
biết tại sao tôi lớn lên và quyết định thành một nhà khoa học về não bộ
với tràn đầy nghị lực và lý tưỏng.
Tôi rất tích cực hoạt động trong lãnh vực này. Tôi là một giáo sư khoa
Não bộ học của Đại học Harvard và là thành viên trẻ tuổi nhất trong Ủy
ban nghiên cứu về các bệnh thần kinh. Tôi đi khắp nước diễn thuyết về
căn bệnh và cách trị liệu và kêu gọi những người bệnh khỉ qua đời thì
thân nhân họ nên hiến bộ óc cho viện đại học để nghiên cứu.
II. Nếu bạn hiếu kỳ muốn biết thế nào là bị Tai biến mạch máu não thì
Phần hai, “Buổi sáng ngày bị Tai biến”, là chương bạn nẽn đọc. Trong
phần này, tôi sẽ dẫn bạn qua một hành trình lạ thường để bạn thấy được
những suy sụp từ từ về khả năng hiểu biết – cái biết hiện tại về sự vật
chung quanh và cái biết về những điều đã học hỏi trong quá khứ – của
người bị Tai biến, dưới cái nhìn của một nhà khoa
học. Khi não của tôi bị xuất huyết càng lúc càng nhiều thì tôi biết
rằng đấy là sự mất mát và suy sụp của trí tuệ về phương diện Sinh học.
Còn về phương diện Tế bào thần kỉnh học, Phải thú nhận rằng tôi đã học
được rất nhiều về não bộ và sự vận hành của nó trong buổi sáng xuất
huyết này, nhiều như tôi đã học hỏi trong bao năm khoa bảng. Đến cuối
buổi sáng hôm ấy, ý thức của não bộ còn lại – não bộ Phải – đã đưa tôi
sang một vùng nhận thức mới: tôi đã trỏ thành một với vũ trụ. Từ đó tôi
mới hiểu
được rằng tại sao với bộ óc vật chất này, người ta có thể đạt đến sự hiểu biết về những điều “thần bí” và “siêu hình”.
III. Nếu như bạn muốn giúp một người đã bị Tai biến não hay do một tai
nạn mà bị chấn thương ỏ não bộ, thì những chương về sự phục hồi là rất
cần thiết và hữu ích – trong đó có hơn 50 lời gợi ý về những điều nên và
không nên làm cho ngưòi bệnh. Tôi hi vọng bạn sẽ chia sẻ kiến thức này
cho mọi người chung quanh khỉ họ cần đến.
IV. Phần cuối, quyển sách cho thấy cơn Xuất huyết này đã dạy tôi những
điều mới lạ về bộ óc, bạn sẽ thấy rằng quyển sách này không hoàn toàn
viết về Tai biến mạch máu não. Nói cho chính xác hơn, Tai biến não chỉ
là một chấn thương khiến cho những hiểu biết mới về não bộ xuất hiện.
Quyển sách này cho thấy những nét đẹp và khả năng phục hồi của não bộ
con người, do khả năng nội tại của nó không ngừng thay đổi và luôn
thích ứng để tồn tại. Sau rốt cuốn sách cho thấy hành trình của nhận
thức thuộc bán cầu Phải của não bộ khỉ nó dẫn tôi vào cảnh giới An lành
của vùng Tâm thức sâu thẳm. Tôi đã phục hồi Ý thức luận lý của bán cầu
não Trái để trình bày và giúp cho người đọc
đạt đến Cảnh gioi An lành của vùng Tâm thức thâm sâu mà không cần Phải
trải qua một cơn xuất huyết não như tôi. Hy vọng độc giả sẽ hài lòng
trong cuộc du hành trí thức này.
CHƯƠNG 1
ĐỜI SỐNG CỦA TÁC GIẢ TRUÓC KHI TAI BIẾN NÃO
Tôi là nhà nghiên cứu tế bào não bộ, đã được huấn luyện, thực tập và đã
xuất bản nhiều công trình nghiên cứu. Tôi sinh trưỏng ỏ thành phố Terre
Haute thuộc tiểu bang Indiana. Một người anh của tôi, chỉ lớn hơn tôi 18
tháng tuổi, mắc bệnh Tâm thần Phân liệt. Anh được chính thức chẩn đoán
là mắc bệnh này ỏ tuổi 31, nhưng thực ra anh đã có triệu chúng của bệnh
từ nhiều năm trước. Từ thời thơ ấu, anh đã tỏ ra khác hơn tôi về cách
nhìn thực tại và cách đối xử với mọi người. Do vậy, tôi rất có hứng thú
tìm hiểu về bộ óc con người từ lúc còn bé. Tôi đã thường tự hỏi, vì sao
mà hai anh em cùng quan sát một sự việc vừa mới xảy ra, tại có thể đi
dến hai lời giải thích khác nhau. Sự khác biệt về nhận thức, về cách
tiếp thu và phân tích dữ kiện giữa hai anh em tôi, đã thúc đẩy tôi trỏ
thành một nhà khoa học về não bộ.
Tôi bắt đầu 4 năm đại học từ cuối thập niên 1970 ỏ đại học Indiana,
thành phố Bloomington. Do sự giao tiếp với người anh của tôi mà tôi rất
muốn biết thế nào là một con người “bình thường” trên bình diện trí óc.
Lúc bấy giò, Khoa tế bào não bộ học hãy còn phôi thai và chưa được giảng
dạy ỏ đại học như một phân khoa riêng biệt. Nhưng nhờ môn Cơ thể học và
Sinh học mà tôi được biết ít nhiều về bộ óc con người.
Công việc đầu tiên tôi nhận được sau 4 năm tốt nghiệp không ngờ là một
ân phước lớn trong đời học hỏi. Tôi được tuyển làm Cán sự ỏ phòng thí
nghiệm của Viện đại học, mà thời gian được phân chia làm hai phần: một
là nghiên cứu về giải phẩu Nhân thể học và hai là giải phẩu Tế bào thần
kỉnh. Trong suốt hai năm, tôi say mê trong lãnh vực y học này dưới sự
hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ Robert C. Murphy, và tôi thích mổ xẻ cơ
thể con ngưòi để tìm hiểu và học hỏi. Bỏ qua việc lấy bằng Thạc sĩ, sáu
năm kế tiếp tôi đã ghi danh học chương trình Tiến sĩ trong phân khoa
Sinh học. Năm đầu tôi học phần lớn các lớp của Y khoa, và công trình
nghiên cứu của tôi lại chuyên về Giải phẩu Tế bào Thàn kinh não dưới sự
hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ William J. Anderson. Tôi tốt nghiệp Tiến
sĩ năm 1991, và cảm thấy đủ tự tin để giảng dạy các môn Giải phẩu Nhân
thể, Giải phẩu Tế bào não và Sinh học cho sinh viên ỏ Đại học Y Khoa.
Trỏ lại thời điểm 1988, khi tôi đang làm công việc cán sự ỏ phòng thí
nghiệm nghiên cứu về não bộ, thì anh tôi chính thức được giới y học xác
định mắc Phải chứng bệnh Tâm thần Phân liệt. Về phương diện Sinh học thì
anh em tôi là hai hiện hữu gần giống nhau nhất trên thế gian này. Nên
tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi đã có thể đem ước mơ gắn liền với thực tế
và biến chúng thành hiện thực, còn bộ óc của anh tôi thay vì làm việc đó
thì lại chỉ phát sinh ra hoang tưỏng? Vì vậy, tôi rất hăm hỏ theo đuổi
việc nghiên cứu bệnh Tâm thần Phân liệt này. Tiếp theo lễ tốt nghiệp
Tiến sĩ ỏ Đại học Indiana, tôi được mời làm việc trong chương trình
nghiên cứu hậu đại học của trường Đại học Y Khoa Harvard, phân khoa Thần
kinh. Tôi đã nghiên cứu trong 2 năm, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến
sĩ Roger Tootell, trên bộ phận vỏ não liên quan đến thị giác. Tôi rất
hứng thú trong công cuộc nghiên cứu này vì đa số những người mắc bệnh
tâm thần phân liệt thường cho thấy họ có cái nhìn rất bất thường khi
quan sát những vật chuyễn động.
Sau đó, tôi đã xin chuyễn qua nghiên cứu ỏ phân khoa Tâm thần. Mục đích
của tôi là được nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Tiến sĩ Francine
M. Benes trong bệnh viện McLean. Tiến sĩ Benes là chuyên gia nổi tiếng
về việc giải phẩu não bộ những người bệnh tâm thần phân liệt sau khi
chết, để tìm hiểu và giải thích tại sao họ đã bệnh như vậy. Tôi tin
tưỏng công trình nghiên cứu này sẽ giúp tôi chữa trị được những người đã
mắc chứng bệnh rối loạn não bộ như ông anh của tôi.
Một tuần trước khi sang nhận công việc nghiên cứu mới ỏ bệnh viện
McLean,tôi được mời dự buổi điều trần hằng năm – năm ấy là 1993 – của
“Hội bạn người bệnh Tâm thần toàn quốc” ỏ Miami, Florida. Lúc đó, Hội có
khoảng 40 ngàn hội viên có người nhà mắc bệnh tâm thần. Hiện nay, 2009,
con số đó đã tăng lên đến khoảng 220 ngàn. Chuyến đi này làm thay đổi
hẳn đời tôi. Ở cuộc điều trần, tôi đã hiểu được nỗi đau của 40 ngàn gia
đinh có thân nhân bị bệnh, cũng như gia đình tôi, mà chưa tìm ra được
nguyên nhân và cách cứu chữa. Hội họp ỏ đây là để báo động cho chính
quyền và những người có trách nhiệm trong giới y học Phải quan tâm giải
quyết, vì đó là sự đòi hỏi của người dân về Công Bằng Xã Hội.
Khi trỏ về lại bệnh viện McLean để bắt tay vào việc nghiên cứu bệnh, tôi
rất hăm hỏ và đầy nhiệt tình. Không những tôi muốn cứu anh tôi, mà tôi
còn muốn cứu cả mấy mươi ngàn người qua cuộc điều trần ỏ Miami. Với
nhiệt tình tuổi trẻ, với sự thông cảm nỗi đau của gia đình có người bệnh
và với kiến thức của một nhà khoa học về bệnh tâm thần, năm sau – 1994 –
tôi được đề cử vào ủy ban điều hành của Hội. Thật là một vinh dự và
cũng là trách nhiệm rất lớn lao với một người trẻ tuổi như tôi – mới có
35 tuổi, trong khi tuổi trung bình trong ủy ban là 67. Hằng năm tôi đều
tham dự các cuộc họp tổ chức khắp toàn quốc để tường trình những tiến bộ
trong việc nghiên cứu của chúng tôi.
Bấy giờ tôi lại được cho biết rằng phòng thí nghiệm ỏ bệnh viện McLean
thật sự cần thêm não bộ của người bệnh đã chết để nghiên cứu. Một năm
phòng thí nghiệm chỉ nhận được có vài ba bộ não của người chết gửi tặng
thì không đủ vào đâu. Khi tôi đi tham dự các phiên họp, tôi đã kêu gọi
sự đóng góp, thì số não bộ hiến tặng đã tăng lên được 35. Nhưng hằng năm
Ngân hàng não Phải có trên 100
bộ não thì mới đủ cho công cuộc nghiên cứu. Qua sự nghiên cứu, chúng tôi
đã tìm thấy có ba hệ thống hóa chất khác nhau làm công việc tiếp nối sự
“truyền tin” trong mỗi bộ óc. Nhờ những hóa chất này, như dopamine là
một, mà các tế bào thần kinh có thể chuyển tin tức cho nhau. Nếu chúng
tôi nhận biết được các hóa chất này, sự vận hành vi tế giữa các mạch tế
bào não, biết được liều lượng hóa chất cần thiết của não bộ từng người
bệnh, chúng tôi có thể điều trị những chứng bệnh này bằng những loại
thuốc với liều lượng hiệu quả hơn.
Công trình nghiên cứu của tôi đã được đăng trên báo y học “BỉoTechniques
Journal” đầu Xuân 1995; và đến năm 1996, tôi được giải thưỏng của Đại
học Y Khoa Harvard, phân khoa Tâm thần về kết quả nghiên cứu này. Tôi
thật lạc quan và yêu đời. Nhưng rồi một sự kiện không thể ngờ xảy ra.
Tôi đang ỏ giữa độ tuổi ba mươi. Con đường sự nghiệp đang đi lên. Thì
bỗng nhiên trong chớp mắt, màu hồng tươi thắm của cuộc đời và những viễn
cảnh đẹp đẽ của tương lai đã tan thành mây khói. Tôi thức dậy buổi sáng
ngày 10 tháng 12 năm 1996 để khám phá ra rằng não bộ của chính tôi cũng
đã mang bệnh. Tôi đang bị Xuất huyết não! Trong vòng 4 tiếng đồng hồ
ngắn ngủi, tôi theo dõi và thấy tâm trí tôi từ từ hũy hoại trong khả
năng phân tích sự vật xung quanh qua các giác quan của tôi. Một hình
thức xuất huyết não hiếm hoi xảy ra đã làm cho cơ thể tôi hoàn toàn tê
liệt, từ khả năng đi đứng, nói năng, đọc viết, hoặc hồi tưỏng lại mọi
việc trong đời.
Tới đây, tôi nghĩ rằng độc giả muốn biết ngay những gì đã xảy ra cho tôi
trong buổi sáng xuất huyết não ấy. Nhưng hãy khoan. Để quý vị có thể
hiểu được những gì đã xảy ra trong não bộ khi nó bị xuất huyết, tôi xin
trình bày trong chương 2 và 3 sau dây vài điều cơ bản về khoa não bộ
học.
CHƯƠNG 2
MỘT MÔN KHOA HỌC ĐƠN GIẢN
Thông thường, để cho hai người chúng ta có thể trao đổi với nhau về một
vấn đề gì, trước hết chúng ta Phai có một số ý niệm chung về thực trạng
của vấn đề đó. Hơn nữa, hệ thống thần kinh của chúng ta cũng Phai tương
đương trong khả năng nhận xét và hiểu biết các dữ kiện từ ngoại cảnh,
phân tích và kết nạp dữ liệu đó vào bộ óc, rồi cũng Phải tương đồng
trong cách biến hiểu biết đó ra thành ý nghĩ,
lời nói, hay việc làm. Những cảnh “ông nói gà, bà hiểu vịt” không Phải là không thường xảy ra.
Việc ra đời của Sự Sống là một biến cố đáng kể nhất. Từ sự xuất hiện một
đơn bào sinh vật, một giai đoạn mới về cấu trúc sinh thể ỏ lĩnh vực tế
bào đã xuất hiện. Những nguyên tử và phân tử trong tế bào kết tập nhau
thành DNA và RNA có thứ lớp và không thể nhầm lẫn. Các tế bào này quần
tụ với nhau và phát triển qua thời gian để sản sinh ra bạn và tôi và tất
cả mọi loài. Ở mức độ cấu trúc DNA, chúng ta
được cấu tạo tương tợ như loài chim, loài bò sát, loài lưỡng thê, loài
động vật có vú, và ngay cả loài thực vật. Nhưng đứng về mặt sinh học, cơ
thể chúng ta mặc dù đã được cấu tạo rất phức tạp, vẫn chưa Phải là hoàn
hảo và cố định, mà là còn đang trên đà phát triển.
Chẳng hạn như não bộ đã và đang thay đổi không ngừng. Não bộ của tổ tiên
ta từ bốn ngàn năm trước không giống như não bộ của con người ngày nay.
Chỉ riêng sự phát triển về ngôn ngữ đã làm thay đổi từ hình thể đến cấu
trúc hệ thống tế bào não bộ. Hầu hết những nhóm tế bào khác nhau của cơ
thể đều sinh ra và chết đi trong vài tuần hoặc vài tháng, rồi được thay
thế bằng những tế bào mới, các tế bào não lại không như thế, kể từ khi
chúng được sinh ra. Có nghĩa là các tế bào não của bạn ngày nay cũng
“già đi” theo số tuổi của bạn. Sự sống không bao giò chết của tế bào não
cắt nghĩa phần nào cái cảm gỉác của ban: dù đã 50 hav 70 tuổi, bạn vẫn
ngỡ mình đang là 15 hay 20!
Số lượng tế bào thần kinh trong bộ óc con người không thay đổi, nhưng sự
“tiếp xúc” giữa các tế bào thì thay đổi, tùy theo sự học hỏi và kinh
nghiệm sống của mỗi cá nhân. Hệ thống tế bào thần kinh của con người
thật năng động và tuyệt vời, với con số tế bào ước khoảng một ngàn tỉ.
Để có ý niệm một ngàn tỉ tế bào óc là bao nhiêu, thì hãy nhớ rằng dân số
toàn thế giới hiện nay là 6 tỉ. Nhân con số 6 tỉ dân này lên 166 lần,
thì bạn có được con số một ngàn tỉ tế bào đang chen chúc trong cái sọ bé
nhỏ của mỗi con người chúng ta, với trọng lượng trung bình của não bộ
không hơn 1,5 kg. Dĩ nhiên con người chúng ta không Phải chỉ có não bộ.
Còn có thân thể nữa. Trung bình, cơ thể một người trưỏng thành gồm chứa
khoảng 50 ngàn tỉ tế bào. Có nghĩa là số tế bào trong một cơ thể gấp
8.333 làn tổng dân số trên toàn thế giới. Thật là kỳ diệu: những tế bào
xương, tế bào thịt, tế bào tạng phủ…, làm sao chúng
có thể điều phối và hoạt động nhịp nhàng với nhau để tạo thành một cơ
thể hoàn toàn khỏe mạnh và không bao giò bệnh tật? Cho nên nếu bạn có
mang bệnh, đừng lấy làm lạ! Sự tiến hóa về phương diện sinh học thường
bắt đầu từ thô sơ lên đến phức tạp. Để bảo đảm sự tiến tạo các sinh vật
được hữu hiệu, Tạo hóa luôn theo một khuôn mẫu nhất định. Như con ong
hút mật, con chim làm tổ, quả tim bơm máu, tuyến mồ hôi điều hòa thân
nhiệt…; mỗi mỗi được tạo tác theo những “mã số“ riêng không hề bị xáo
trộn. Do đó, qua hàng triệu triệu năm, mọi loài chỉ tiến hóa và phát
triển trên “căn bản” của mình để tiến đến mức độ phức tạp hơn. Chẳng hạn
như con người và loài dã nhân. Con người có đến 99,4% DNA cấu tạo tương
tự như dã nhân. Nhưng như vậy không có nghĩa dã nhân là thủy tổ của
loài người; chúng chỉ có trí thông minh xấp xỉ như con ngưòi mà thôi.
Điều đó chứng minh sự kỳ diệu của bàn tay tạo hóa: chỉ thay đổi một chút
xíu các mã số DNA mà đã tạo ra các loài sinh vật khác nhau. Còn giữa
loài người với nhau, bạn và tôi có cùng loại DNA, nhưng chỉ khác nhau có
0,01% (1/100 của 1%) trên cách cấu trúc. Vỉ vậy, mắt mũi, màu da, cao
thấp, mập ốm, dáng vẻ… không giống nhau.
Và con người khác với những loài có vú khác là ỏ bộ não: con người có
lớp vỏ não dợn sóng và uốn khúc một cách phức tạp. Mặc dù não bộ loài có
vú đều có vỏ não bao bọc bên ngoài, nhưng vỏ não con người lại dày hơn
gấp đôi và vì vậy các chức năng sinh hoạt cũng gấp đôi. Hơn nữa, vỏ não
con người còn chia não bộ ra làm 2 bán càu riêng biệt mà chức năng sinh
hoạt mỗi bán cầu lại bổ túc cho nhau.
Nhờ bổ túc cho nhau mà mỗi người chúng ta có một nhận thức nhất định và
độc nhất – không ai giống ai – về thế giới bên ngoài. Lớp vỏ não trên
cùng mới được “thêm vào” cho não bộ con người gần đây thôi (vài ngàn
năm) đã làm cho con ngưòi khác hẳn các loài có vú khác, Nhờ những mạch
thần kinh ỏ đây mà con người có được tri thức về những vật chất “cụ thể“
(nhà cửa, vật dụng) và những ý niệm “trừu tượng” (ngôn ngữ, nghệ
thuật…). Còn những lớp sâu hơn của vỏ não thì chức năng sinh hoạt giữa
người và vật đều giống nhau.
Bán cầu não bộ cũng cần mạch máu mang dưỡng khí lên nuôi sống. Các mạch
máu này được phân nhiệm vụ riêng biệt, như mạch máu thuộc phần cử động
tứ chi, phần tạo tác ngôn ngữ, phần hiểu biết ngôn ngữ, phần thuộc thị
giác, phần phân biệt vật thể. Mạch máu nào bị hư hỏng thì phần liên hệ
đó của thân thể không còn hoạt động được. Và cũng như các bộ phận khác
của cơ thể là thường hay bị bệnh, các mạch má ỏ bán cầu não bộ cũng hay
bị ‘tai biến”. Những tai biến này chia làm 2 loại thường làm chết
người hoặc biến con bệnh thành phế nhân.
Tai biến thông thường nhất, lên đến 83% trường hợp, là “nghẽn” mạch máu.
Tai biến hiếm hoi, chỉ có khoảng 17%, nhưng nặng nề nhất, là “vỡ“ mạch máu.
Nghẽn mạch máu là khỉ mỡ cholesterol đóng theo thành mạch máu làm trỏ
ngại máu không thể lưu thông trên vỏ não. Không dưỡng chất, tế bào thần
kinh ỏ vùng này Phải tê liệt. Thường thì tế bào thần kinh tê liệt sẽ
không được thay thế. Các sinh hoạt của thân thể liên hệ tới vùng thần
kinh này sẽ bị đình chỉ vĩnh viễn, trừ phi có những tế bào thần kinh
khác học hỏ vai trò của những thần kỉnh đã tê liệt qua một thời gian,
gọi là phục hồi chức năng. Bỏi vì mỗi người có sự nối kết các đường dây
thần kinh não bộ một cách khác nhau, nên khả năng phục hồi cũng khác
nhau.
Vỡ mạch máu là khi mạch máu não có chỗ cấu tạo bất thường – thành mạch
máu quá mỏng – bị vỡ ra, lớp vỏ não bị ngập lụt trong máu và tế bào não ỏ
vùng đó không còn hoạt động được; vì máu là độc tố của tế bào thần
kỉnh, không thể được tiếp xúc trực tiếp. Đôi khi vỡ mạch máu là do áp
suất huyết quá cao, các vi huyết quản nốỉ liền động mạch và tĩnh mạch
chịu đựng không nổi áp lực. Đây là những tai biến chết người.
Những Dấu Hiệu của Tai Bién Mạch Máu Não:
· Tự nhiên nói không ra tiếng.
· Tay chân bị tê hay bắp thịt bị cứng.
· Tự nhiên quên hết mọi sự một cách bất thường.
· Tự nhiên đi đứng mất thăng bằng.
· Bị nhức đầu dữ dội khác với bình thường.
· Bỗng nhiên mắt mờ, không còn thấy gì hết.
Tai biến Mạch máu Não là vấn đề Sống Chết. Hãy đưa đi cấp cứu lập tức.
CHƯƠNG 3
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI BÁN CẦU NÃO
Từ hơn 200 năm nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu về sự khác biệt giữa
hai bán cầu não bộ con người. Người đầu tiên là DuPuis. Vào năm 1780,
DuPuis đã tuyên bố là con người có bộ óc đôi, vì có hai bán cầu. Gần một
thế kỷ sau, Arthur L. Wigan đã chứng kiến cuộc giảo nghiệm một người đã
chết mà não bộ chỉ có một bán cầu. Người này lúc sống cũng đi, đúng,
nói năng, và có ý thức như một người
bình thường. Vì vậy Wigan rất hào hứng đưa ra thuyết “Con người có nhị
trùng tâm”. Thuyết này gây nhiều hứng khỏi cho các nhà khoa học Hoa Kỳ.
Cho tới thập niên 1970, tiến sĩ Roger W. Sperry nhờ giải phẫu cắt rời
hai bán cầu não để chữa bệnh “kinh phong”, đã khám phá ra vài điều mới
mẻ. Trong bài diễn văn lãnh giải Nobel Y học năm 1981, tiến sĩ Sperry
nhận định: “Khi hai bán cầu não bộ bị cắt
rời, đương sự sẽ hành xử khác nhau như hai con người khác nhau, tùy theo bán cầu não Trái hay Phải được sử dụng”.
Những nghiên cứu và quan sát tiếp theo các bệnh nhân bị tách não làm đôi
(để trị bịnh kỉnh phong) cho các nhà khoa học kết luận rằng: Khi 2 bán
cầu não còn dính với nhau thì hoạt động “bổ túc” cho nhau; còn khi bị mổ
tách rời thì sẽ hoạt động như 2 bộ não “độc lập”, riêng biệt. (Tiến sĩ
Jekyll).
Nhờ hai bán cầu não Trái và Phải hoạt động bổ túc cho nhau nên chúng ta
mới có những nhận xét, hiểu biết về nhân sinh và vũ trụ một cách rất độc
đáo mà các loài sinh vật khác không thể có được. Sự bổ túc này rất hài
hòa đến nỗi chúng ta không thể phân biệt khi nào chúng ta sử dụng bán
cầu não Trái và khi nào là bán cầu não Phải. Tuy nhiên, ỏ một mức độ nào
đó, chúng ta có thể biết.
Nhưng trước hết, điều quan trọng là Phải biết phân biệt người thuận tay
Phải hay tay Trái với người thiên về bán cầu não Phải hay Trái. Bán cầu
não Phải điều khiển nửa phần thân thể bên tav Trái, và bán cầu não Trái
điều khiển nửa phần thân thể bên tay Phải. Còn người thuận sử dụng bán
cầu não Phải hay Trái thì lại khác. Muốn biết một người thiên về sử
dụng bán cầu Phải hay Trái thì hãy quan sát cách họ “nói năng” (sử dụng
ngôn ngữ) và cách họ “nghe” và “hiểu“ lời nói (tiếp nhận và giải mã ngôn
ngữ) của người khác. Nói chung, gần như 85% dân số thuận tay Phải và
thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Và khoảng 60% người thuận tay Trái
cũng thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Như vậy số người thuận sử dụng
bán cầu não Phải không nhiều.
Khi các dữ kiện (ánh sáng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác, ý tưỏng) hằng
ngày không ngớt tràn ngập não bộ con người qua các giác quan, thì bán
cầu não Phải tiếp nhận các dữ kiện này bằng hình ảnh như hình chụp của
máy ảnh, được rửa ra và được dán chồng lên nhau. Thí dụ: Mắt “thấy“ cô
gái này đẹp thì trong não bộ Phải có nguyên hình cô gái với toàn cảnh,
thí dụ cô gái ấy ỏ một tiệc cưới, ỏ quán kem, ỏ nhà một người bạn… Tai
“nghe” tiếng giảng đạo của một linh mục thì có hình ảnh của vị linh mục
đó tại nhà thờ…“Nỗi buồn” hay sự “thất vọng” cũng được não Phải lưu giữ
bằng hình ảnh trong một bối cảnh nào đó. Những hình ảnh này được lưu giữ
cho dù sự kiện đã xảy ra cách nhiều năm, khi hồi tưỏng lại ta cũng như
đang “thấy” trước mắt, nhất là khi hình ảnh đó ngày xưa đã gây quá nhiều
ấn tượng.
Với não bộ Phải, sự ghi nhận không có thời gian. Chỉ là “hình ảnh” được
ghi lại “bây giò“ và “nơi đây” với đầy đủ cảm giác rất sống động. Não bộ
Phải không bị gò ép Phải “suy tưỏng” theo một nguyên tắc hay khuôn khổ
lề luật nào, và đó là não bộ của các nghệ sĩ, tu sĩ, nhà đạo đức, các
nhà khoa học lo cho tương lai nhân loại, chuyên nghĩ đến những việc mà
người “bình thường” không hề nghĩ đến.
Não bộ Phải, phần trước trán, cũng làm cho chúng ta nghĩ đến tình nhân
loại, nghĩa đồng bào, cùng sống trong một dãi đất, trên một tỉnh cầu,
biết thương yêu nhau, giúp đỡ, nhường nhịn, sống chung hay chết chung
với nhau.
Não bộ Trái thì ngược lại trong việc ghi nhận các dữ kiện. Tiếp nhận
những sự kiện từ não bộ Phải như là hình ảnh của một tổng thể, não bộ
Trái đem ra phân tích, phê phán và sắp xếp theo hình dáng, màu sắc, âm
thanh, mùi vị, thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai), tình cảm (thương
ghét, vui buồn), khối lượng (nặng nhẹ, lớn nhỏ)… Nói chung là não bộ
Phải nhìn mọi sự dưới dạng toàn cảnh và tổng thể; còn não bộ Trái thì
dùng ngôn ngữ để mô tả từng chi tiết, theo thứ tự thời gian, theo phân
biệt tình cảm. Thí dụ: Não bộ Phải khi gặp một người thì ghi nhận ngay
hình ảnh người ấy gặp trong một khung cảnh nào đó. Não Trái sẽ ghi chi
tiết: nam nữ, chủng tộc, cách ăn mặc, nói năng, học vấn, cá tính… (Ỏ
điểm này, ta gọi là óc nhận xét). Hay nhìn một đóa hoa. Não bộ Phải chỉ
ghi nhận: đóa hoa và bất cứ hoa gì thì cũng thấy đẹp. Còn não Trái sẽ
ghi hoa gì, màu gì, mùi gì, cánh hoa, đài hoa, cuống hoa, xấu, đẹp như
thế nào.
Nhờ thu nhận hình ảnh ngưòi, vật, cảnh nên não bộ Phải nhìn đâu cũng
đẹp, dễ thương, độc đáo, biết tôn trọng vật hay người đã nhìn thấy, và
thấy cá nhân mình chỉ là một phần trong toàn phần, không có sự kỳ thị,
phân biệt hơn kém, thương ghét. Trái lại, với chức năng phân biệt, phê
phán theo giá trị, xếp loại theo hạng mục, não bộ Trái tạo ra nhiều dễ
dàng trong đời sống, nhưng cũng từ đó làm cho đời
sống thêm phức tạp hơn lên. Thí dụ: mục đích của thức ăn là để no bụng.
Nhưng có ngưòi đói thấy thức ăn, thì ăn. Có người đói lại không ăn, vì
thức ăn bị chê là không ngon, hay bày biện không hợp… lễ. (Còn con vật
hễ đói, thấy đồ ăn thì…ăn, không cần ngon dỏ hay lễ nghĩa gì cả).
Thêm nữa, não bộ Trái có khả năng ngôn ngữ nên biết diễn tả mọi sự mọi
vật thật chi tiết, rõ nét, dễ hiểu, làm cho sự hiểu biết của loài người
được tích lũy và lưu truyền càng ngày thêm phong phú, khiến cho con
người càng ngày một thông minh, tiến bộ qua quá trình tiếp thu kiến thức
hàng ngàn năm. Với những kiến thức được phân loại theo hạng mục, con
người cũng tiên đoán được những gì sắp xảy ra, tránh được phần nào tai
họa (thòi tiết, giông bão, động đất, sóng thần…). Nhưng cũng chính với
những khả năng đặc biệt của não bộ Trái, con người, và chỉ có loài người
mà thôi, đã tạo ra biết bao khốn khổ cho chính mình và người chung
quanh. Nhờ khả năng ngôn ngữ, con người biết tự đặt câu hỏi “TÔI LÀ…AI?”
Bản Ngã từ đó sinh ra. Cái Tôi, cái Ngã càng được trau chuốt, quan
trọng hóa, thì khốn khổ tự thân của con người cũng dồn dập.Khi bán cầu
não Trái bị thương tật, người bệnh sẽ mất khả năng nói và hiểu lờinói
của kẻ khác. Nhưng nhờ bán cầu não Phải, họ sẽ cảm nhận được là người
đối diện đang nói thật hay nói dối qua sự nhận xét cách nói, giọng nói,
vẻ mặt, và điệu bộ. Bán cầu não Phải vì vậy có khả năng bổ túc cho bán
cầu não Trái về moi lĩnh vực sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, khi não
Trái bị tai biến hay thương tật.
Loại tai biến mà tôi trải nghiệm là sự Xuất huyết trầm trọng bên bán cầu
não Trái. Sau khi đã được mổ sọ để lấy khối máu khô ra, tôi đã Phải mất
8 năm mới hoàn toàn hồi phục thể lực và trí lực. Các chương tiếp theo
sẽ kể tiếp cho bạn biết những gì đã xảy ra.
Tôi cũng nhiệt tình khuyến khích các bạn hãy tìm đọc thêm những tài liệu
về khả năng của bộ óc, về sự sinh hoạt của hai bán cầu trong một con
người bình thường, để bạn có thể giúp những người bị Tai biến mạch máu
não phục hồi một cách hữu hiệu, và giúp cho chính bạn sống cuộc đời mình
tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG 4
BUỔI SÁNG NGÀY BỊ TAI BIẾN
Lúc ấy là 7 giờ sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996. Tôi thức dậy theo tiếng
báo thức của đồng hồ reo bên giường. Với tay bấm tắt tiếng reo, hình như
tôi vẫn còn chập chờn trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Nhưng tinh
thần tôi đã sảng khóaí, sẵn sàng cho một ngày bình thường. Tôi biết tôi
Phải thức dậy đi làm việc. Đang trỏ mình lăn ra khỏi giường, bỗng tôi
cảm thấy đau nhói bên phía trong đầu sau mắt Trái, một cơn đau chưa từng
có. Chẳng mấy khi bệnh hoạn, tôi lấy làm lạ về một cơn đau khỉ mới vừa
thức giấc. Tôi đưa tay Trái lên kéo đóng tấm mành che bớt ánh sáng mặt
tròi chói chang đã làm mắt tôỉ khó chịu, và đưa tay Phải lên che con mắt
đau lại. Tôi cảm thấy bối rối tự hỏi tại sao mới sáng mà lại
đau thế này? Con mắt Trái cứ tiếp tục đau giật tê buốt từng cơn, tê buốt
như cắn Phải cục nước đá. Tôi rời giường, khập khểnh leo lên chiếc máy
tập thể dục như một người lính bị thương, hy vọng sự vận động cơ thể,
máu huyết lưu thông sẽ làm giảm cơn đau. Sau vài động tác, tôi thấy cơ
thể như rã rời, tay chân như không còn là của tôi nữa, mặc dù tôi vẫn
tỉnh táo. Hay đúng hơn, cơ thể như không còn theo mệnh lệnh của bộ óc
tôi.
Tôi như một người khác đang quan sát cử động của chính mình. Tôi đưa hai
tay nắm lấy tay nắm của máy tập thể dục, mà vụng về như hai tay của
người tiền sử. Đầu vẫn tiếp tục đau điếng từng cơn. Tôi có cảm giác lạ
kỳ: Ý thức tôi đã tản mạn đâu mất và thân thể tôi như đang lơ lửng giữa
thực tại và một cõi mông lung nào. Nhận thấy sự vận động của thể dục
không giúp ích gì cho cơn đau, tôi rời máy
và hướng vào nhà tắm. Tôi để ý thấy tôi bước đi không còn tự nhiên, mà
cà thọt như một tên hề. Và không thể bước đi một cách thăng bằng, tôi
Phải cố gắng hết sức mới không Phải té. Để bước chân vào bồn tắm, tôi
Phải vịn vào vách, và cố gắng lắm thì hai chân mới đứng vững được cho
khỏi ngã. Tôi lấy làm ngạc nhiên là sao hôm nay tôi không thể điều khiển
được cái khối 50 ngàn tỉ tế bào theo ý muốn
và tự hỏi không biết bộ óc kỳ diệu của tôi sao hôm nay lại bất thường?
Tôi biết rằng sỏ đĩ con người có thể đi đứng một cách thăng bằng và nghe
được, thỏ được là nhờ phần não bộ nối dài với tủy sống. Như vậy là tôi
có thể bị rối rắm với các tế bào não bộ ỏ phần này, và có thể nguy hiểm
chết người. Trong khi tôi cố tìm ra lòi giải đáp bằng kiến thức của một
nhà khoa học não bộ, tôi bỗng nhiên nhận ra mình đang ỏ vào một tình
trạng thật là kỳ lạ: Thông thường não bộ Trái hay “nói” cho tôi biết
những gì đang xảy ra, nhưng bây giờ thì im lặng, hoặc nói vài điều không
mạch lạc, không liên hệ, không nghĩa lý gì với nhau. Hơn nữa, thính
giác của tôi thường rất nhạy bén, nhưng bây giờ tôi không còn nghe được
cả tiếng ồn ào thường lệ của xe cộ bên ngoài. Hoang mang, tôi lục lọi ký
ức xem tình trạng này có bao giờ xảy ra chưa. Hiện tượng giống như bị
nhức đầu dữ dội. Tôi càng cố tập trung ý tưỏng, thì trí óc và sự suy
nghĩ của tôi càng như tan biến vào nơi đâu. Bộ phận não Amygdala có bổn
phận thông báo về những tai họa, những điều đáng sợ, Phải có phản ứng
thế nào
cho thích hợp, đã không thấy hoạt động vào lúc này. Và thay vào sự lo
lắng về “chuyện gì đã xảy ra trong bộ óc tôi”, tôi bỗng nhiên cảm thấy
“bình an” thật lạ. Cả đời mấy mươi năm, lúc nào tôi cũng nghe não bộ
Trái của tôi “báo cáo” từng chi tiết về đủ thứ chuyện: Nào là chuyện
nghiên cứu, chuyện dạy học, kế hoạch này, chương trình kia Phải hoàn tất
kịp thời. Thì nay, những việc làm bận rộn đó đã biến đâu mất. Tôi chỉ
còn một cảm giác thanh tịnh, hạnh phúc và cực kỳ an lạc. Và vì Trung tâm
Ngôn ngữ ỏ bán cầu não Trái đã bị tê liệt, tôi không còn liên lạc được
với mọi ký ức trong đời. Tôỉ không còn biết “tôi là ai”. Tôi như hòa
làm một với vũ trụ, và cảm giác đó làm tôi thích thú vô cùng. Tới đây
thì gần như tôi không còn ý niệm về không gian ba chiều vật chất ỏ quanh
tôi. Tôi đứng trong bồn tắm, lung tựa vào vách, nhung không còn khả
năng phân biệt thân thể và tay chân tôi có giới hạn tới đâu. Tôi có cảm
giác toàn thân tôi là một khối chất lỏng hòa tan với mọi vật thể chung
quanh. Khối lỏng của cơ thể tôi trỏ nên nặng nề, và năng lượng trong
người dường như tan biến mất. Tôi nghĩ: “Ủa, mình thật là lạ. Mình là
một sinh vật kỳ lạ vô cùng. Mình là môt túi nước lớn bao bọc bên ngoài
bằng một lớp màng nhầy. Mình là đời sống! Với hình thức này mình là một
“ý thức sống trong bọc nước” và đó là mình! Mình là hàng ngàn tỉ tế bào
có chung một tri thức. Mình ỏ đây, bây giò và hăm hỏ sống đời! Coi kìa,
thật là một khái niệm kỳ diệu và không thể hiểu thấu được! Mình là một
tế bào đời sống, ủa, mà không Phải, mình là một phân bào đòi sống, có cả
sách hướng dẫn cách phát triển rõ rệt, và là phân bào có trí hỉểu
biết!” Với sự thay đổi tình trạng của hiện hữu, tâm trí tôi không còn
vướng bận với hàng ngàn chi tiết mà bộ óc hướng dẫn tôi trong đời sống
hàng ngày, cả những suy nghĩ mà bán càu óc Trái “nói” với tôi mỗi ngày
cũng hoàn toàn im lặng. Và với yên lặng này, tôi không còn ký ức về quá
khứ, cũng không suy nghĩ đến tương lai.
Tôi lại nghĩ rằng bán cầu não tráỉ đang bị thương hóa ra rất dễ chịu.
Tôi hăm hỏ quay ra chú tâm tới hàng ngàn tỉ tế bào thông minh đang hoạt
động hài hòa để giữ cho cơ thể tôi được sống. Và trong khi máu càng lúc
càng chảy nhiều hơn trong đàu tôi, ý thức về ngoại cảnh của tôi nhạt
nhòa dàn. Tôi chỉ còn cảm giác hạnh phúc và sung sướng rằng các tế bào
li ti trong cơ thể vẫn còn hoạt động liên tục
không ngừng nghỉ để cho tấm thân vật chất của tôi được tồn tại. Đây là
lần đầu tiên trong đời, tôi thật sự cảm thấy mình là “một” với sự sống.
Và tôi vui mà thấy đời sống là một tập hợp những tê’ bào thông minh
quanh một phân bào thiên tài tuyệt vòi. Tôi cảm giác mình như là khối
hơi trong vũ trụ, dù cơn đau từng chập trong đầu vẫn còn rõ nét nhưng
không Phải là không chịu nổi. Cơn đau lan xuống tới ngực và chạy ngược
lên tận cổ, kéo tôi về với thực tại. Tôi nhận ra ngay mình đang lâm tình
trạng cực kỳ nguy hiểm. Nhất định Phải biết cái gì đã xảy ra, tôi cố
lục soát phần hiểu biết còn lại trong ý thức để tự chẩn bệnh mình: “Cái
gì đang xảy ra trong cơ thể? Bộ óc đã như thế nào rồi?”. Mặc dù ý thức
tôi bị đứt quãng và mơ hồ, tôi cũng cố gắng giữ thăng bằng cơ thể. Bước
ra khỏ bồn tắm, tôi như người say rượu. Thân nghiêng ngửa, chân nặng nề,
bước chậm chạp. Câu hỏi trong đầu: ‘Tôi đang muốn làm gì bây giờ? Thay
đồ. Thay đồ để đi làm”. Tôi vất vả lựa quần áo. Lúc đó đã 8:15 sáng, và
tôi sẩn sàng
lái xe ra đi. Tôi nghĩ: “Được rồi, tôi đi làm đây. Tôi đi làm đây. Mà
tôi có biết làm sao đến sở làm không? Tôi có thể lái được xe không?”.
Trong khỉ tôi đang nghĩ đến con đường Phải lái xe từ nhà đến bệnh viện
McLean nơi tôi làm việc, tôi tự nhiên mất thăng bằng vì cánh tay Phải bị
xụi thình lình một bên. Lúc đó, tôi mới hiểu ra: “Trời ơi! Tôi bị xuất
huyết não! Tôi bị xuất huyết não!” Phút tiếp theo đó, một ý tưỏng thoáng
chớp lên trong đầu: “Ô! Cái xuất huyết não này mới dễ thương làm sao!”.
Tôi như bị rơi từ vùng ảo giác hạnh phúc, an lạc trỏ về thực trạng nguy
hiểm của não bộ. Dù vậy, tôi vẫn luôn nghĩ: “ồ kìa, có bao nhiêu nhà
khoa học được dịp may mắn quan sát sự vận hành và suy thoái của chính bộ
óc mình từ trong ra ngoài?” Tôi đã để cả đòi tìm hiểu: Làm sao mà bộ óc
con người tạo ra được sự hiểu biết cho chúng ta về những thực tại chung
quanh? Và bây giờ, tôi được dịp trải nghiệm sự vận hành của Não bộ từ
chính bộ óc của mình qua cơn Xuát huyết não.
Khi cánh tay Phải trỏ thành bại xụi, tôi có cảm tưỏng như sức sống của
nó nổ tung ra. Nó nằm im xuôỉ xuống một bên vai mà tưỏng như đã bị chặt
đút đâu mất. Về não bộ học, tôi biết rằng phần vỏ não về động tác tay
chân đã bị ảnh hưỏng, và tôi may mắn là cánh tay chỉ chết trong vài phút
rồi hơi cử động lại được, với sự đau tê dữ dội. Tôi như người bị
thương. Cánh tay Phải như mất hết sức lực, tựa như khúc cây. Tôi tự hỏi
không biết có bao giờ cánh tay sẽ trỏ lại bình thường. Ngó qua thấy cái
giường ngủ ấm áp, nhất là vào buổi sáng mùa Đông lạnh lẽo ỏ vùng này,
tôi muốn nằm. “ổi, tôi mệt quá rồi. Tôi đau quá rồi. Tôi muốn nghỉ ngơi.
Tôi muốn nằm và ngủ một chút”. Nhưng tự trong thâm tâm tôi, một giọng
nói như ra lệnh: “Không được nằm! Nếu ngươi nằm, ngươi sẽ chết!”. Kinh
ngạc vì tiếng đe dọa, tôi thử phán định tình hình bấy giò. Nghịch lý
thay, mặc dù tôi thực tế đang ỏ trong tình trạng khẩn cấp thúc giục tôi
Phải gọi ngay cấp cứu đưa vào bệnh viện, một phần khác trong tôi vẫn cảm
thấy thú vị vì đang sống trong cảm giác An vui và Thanh tịnh. Tôi bước
ra khỏi ngạch cửa phòng ngủ, ngang qua tấm gương. Nhìn vào đôi mắt tôi
phản chiếu trong đó, tôi ngừng lại một chút để tìm vài chỉ dẫn hiển lộ
trong
ánh mắt của mình. Trong cái sáng suốt còn sót lại của một não bộ đã bị
thương, tôi chợt hiểu ra là, qua thiết kế sinh học tuyệt vời của tạo
hóa, cơ thể con người là một món quà quí giá và rất mong manh. Đối với
tôi, cái thân thể này vận hành như một cánh cửa lớn qua đó năng lượng
của cái ‘lôi” được chiếu rọi vào một khoảng trống gọi là không gian ba
chiều.
Khối lượng tế bào của thân thể này cung cấp cho tôi cái gọi là “nhà” tạm
thời nhưng rất hoành tráng. Và với bộ óc kỳ diệu, có khả năng kết nạp
thực sự hàng tỉ của hàng ngàn tỉ dữ kiện mỗi phút, đã tạo cho tôi cảm
tưỏng rằng có một không gian ba chiều không những là có thực mà còn là
an toàn để sống trong đó. Trong cái ảo giác đó, tôi đã bị thôi miên vì
khối lượng sinh học đã tạo ra hình dáng tôi,và kinh ngạc với sự vận hành
vừa đơn giản vừa phức tạp của nó. Tôi đã nhận ra tôi chỉ là sự kết hợp
của một hệ thống phức tạp và sống động, một tổng thể những tế bào có khả
năng tập kết dữ kiện của thế giới bên ngoài qua những bộ phận nối kết
nhau gọi là giác quan. Và khi hệ thống này vận hành thích hợp, nó sản
sinh ra một ý thức có khả năng phân biệt ý nghĩa mọi thực trạng chung
quanh. Tôi ngạc nhiên
tự hỏ tôi đã sống trong cái thân thể này đã nhiều năm, vói hình thức một
nhà nữ bác học như vầy, mà sao đã không thực sự nhận ra rằng mình chỉ
là ngưòi khách lạ từ nơi khác đến đây thăm viếng?
Ngay cả trong tình trạng như thế này, cái ngã ỏ bán cầu não Trái của tôi
vẫn ương ngạnh giữ niềm tin rằng, mặc dù tôi đang bị bệnh ỏ não bộ
nghiêm trong, tôi vẫn không sao! Cho nên, trong lúc lạc quan, tôi cũng
tin sẽ hoàn toàn bình phục. RỒI hơi bực bội vì bệnh làm hỏng thòi khóa
biểu làm việc sáng nay, tôi pha trò một mình: “Được rồi, tôi bị xuất
huyết não! Phải rồi, tôl đang bị xuất huyết não!
Nhưng tôi là ngưòỉ bận rộn với công việc. Bỏi vì tôi không thể làm cho
sự xuất huyết ngưng lại, tôi sẽ nghỉ một tuân. Tôi sẽ tìm hiểu xem làm
sao mà bộ óc tôi có thể tạo ra ảo giác tôi là người rất bận rộn. Sau đó,
tôi sẽ làm việc trỏ lại đúng như thời khóa biểu đã định. Bây giờ tôi
Phải làm gì? Gọi cấp cứu. Phải gọi cấp cứu ngay tức khắc”.
CHƯƠNG 4
KHÓ KHĂN KHI TỰ MINH GỌI CẤP CỨU
Tôi không biết chính xác là tôi bị vỡ mạch máu loại nào, nhưng chỉ biết
là mạch máu đang vỡ từ bán cầu não Trái và máu đang đổ ra từng khối
lượng lớn. Khỉ máu tràn ngập qua vùng suy nghĩ những vấn đề phức tạp ỏ
vỏ não Trái, tôi bắt đầu mất khả năng nhận thức về các sự kiện này. Tôi
chỉ còn có thể nhớ được một điều là lúc bấy gio Phải làm sao đến bệnh
viện càng sớm càng tốt. Nhưng gọi cấp cứu để được đưa đến bệnh viện là
cả một vấn đề. Bỏỉ vì tôi không còn khả năng tập trung ý thức vào công
việc nào được nữa. Cái ý nghi “Phải gọi bệnh viện cấp cứu” cứ nhảy ra
nhảy vô, lúc biến lúc hiện trong đầu tôi, khiến tôi không biết đó có
Phải là “mệnh lệnh” nên làm hay không. Hai bán cầu não làm việc chung
nhau bấy lâu nay như một dàn nhạc hợp tấu rất hài hòa, khiến tôi có thể
sinh hoạt bình thường
trong thế giới này. Nhưng bây giờ, do vì sự khác biệt phần hành giữa hai
bán càu, tôi cảm thấy khả năng ngôn ngữ và tính toán của bán càu Trái
không còn nữa. Tôi không còn biết số nào là số điện thoại để gọi và gọi
thì sẽ nói gì. Thay vào đó, tôi lại có cảm giác “an lành” len lỏi khắp
người tôi, phát sinh từ bán cầu Phải.
Không còn cái biết “theo đường thẳng” (đã qua, bây giờ, sắp tới) và sự
chỉ dẫn của bán cầu não Trái, tôi như Phải vật lộn để tìm hiểu thế giới
bên ngoài. Tôi không còn phân biệt điều gì là quá khứ, hiện tại hay vị
lai, mà chỉ thấy tất cả là những sự kiện riêng lẻ, biệt lập trong hiện
tại, chẳng dính dáng gì đến nhau. Tôi cố gắng trong tuyệt vọng để lập
lại sự hiểu biết thường ngày, để nối kết những sự kiện rời rạc thành một
chuỗi tiến trình có ý nghĩa. Trong đầu lúc này tôi chỉ còn lặp đi lặp
lại ý nghĩ: ‘Tôi đang cố gắng làm gì đây? Gọi cấp cứu! Tôi đang thảo một
phương án gọi cấp cứu! Tôi đang làm gì đây? Tôi Phải soạn cho được một
kế hoạch gọi cấp cứu. Được rồi. Tôi Phải gọi cấp cứu”. Trước buôi sáng
bị xuất
huyết não này, bộ óc tôi biết phân loại, sắp xếp các dữ kiện đưa vào từ
bên ngoài như sau: Tưỏng tượng như tôi đang ngồi giữa bộ óc với những tủ
đựng “hồ sơ” xếp thành hàng dài. Khi tôi muốn tìm một ý nghĩ, ý tưỏng,
hay một điều gì trong quá khứ, tôi sẽ nhìn qua các tủ “hò sơ” xem nó nằm
ngăn nào. Khi đã tìm đúng tủ rồi, thì tôi biết tất cả “dữ kiện“ đều nằm
trong đó và mỏ ra sử dụng. Nếu nhìn lần đầu mà không thấy ngăn tủ muốn
tìm, tôi sẽ lặp lại lần nữa cho đến khỉ có mới thôi.
Nhưng buổi sáng này thì khác. Các ngăn đựng “hồ sơ” như bị đóng chặt và
bị đẩy xa ra khỏ sự kiểm soát của tầm tay tôi. Tôi biết tất cả kiến thức
của tôi nằm trong đó, nhưng không phân biệt được chúng đang ỏ ngăn nào.
Tôi không biết làm sao nối kết lại với khả năng ngôn ngữ, kiến thức về
đời sống, về những năm dài học hỏi. Tự nhiên tôi hơi buồn vì không biết
mình có thể trỏ lại bình thường đượckhông.
Không còn khả năng ngôn ngữ và sự phân định thời gian, tôi như bị tách
ròi khỏ cuộc sống và mọi sinh hoạt bình thường. Không còn ký ức, không
còn khả năng phân tích và phê phán của não thùy Trái, tôi như người mà
đầu óc bị che phủ bỏi một màn đen lớn, không biết mình là ai và có mặt
trong đời này để làm gì!
Trong khi đó, nhịp máu đập ỏ đầu vẫn tiếp tục như búa bổ.
Và bây giờ, khi không còn liên hệ được với mọi vật quanh mình nữa, tôi
có cảm tưỏng thân xác tôi đã tan chảy ra như chất loảng và hòa vào vũ
trụ mênh mông.
Khi sự xuất huyết càng lúc càng trầm trọng thì sinh hoạt của não thùy
Trái cũng ngừng bặt. Tôi không còn nhận thức gì được về các chi tiết và
sự phân loại dữ kiện bên ngoài. Bán cầu não Phải giò không còn bị bán
cầu não Trái chi phối nữa, nên đã tự do hoạt động. Như được giải thoát
khỏi những lo âu, toan tính, phân tích, phê phán hằng ngày, bán cầu não
Phải đã đưa nhận thức tôi đến một vùng trời kỳ
diệu của làn sóng ngắn “theta”, và tôi cảm thấy an lạc vô cùng. Tôi
không Phải là Phật tử và cũng không biết gì về Phật pháp, nhưng tôi có
cảm tưỏng là tôi đã đạt tới cảnh giới mà người Phật giáo gọi là Niết
Bàn, nơi mà tâm ý không còn bận rộn và mơ ước một điều gì nữa. Nơi đây,
cảm giác của tôi là không còn toan tính, tranh đua, hơn thiệt; mà chỉ
thấy thật thanh tịnh, bình an, đủ đầy phước báu và hòa làm một với vạn
vật. Và hiển nhiên, một phần của con người tôi đang thích thú với cảm
giác này. Nhưng còn phần khác trong tâm thức vẫn thúc giục tôi Phải kêu
gọi cấp cứu vì cảm giác đau nhức ỏ đầu vẫn còn dữ dội. Nhờ sự thôi thúc
không ngừng này mà cuối cùng tôi đã được giải cứu.
Tại sao tôi không nhấc điện thoại lên và gọi số cấp cứu 9-1-1 ? Vì phần
não Trái liên hệ tới những con số đã bị máu tràn ngập. Các tế bào ỏ đây
đã bị ngập máu nên ý niệm về con số đã không còn hiện hữu. Tại sao tôi
không khập khểnh bước ra đường, ngoắc một người lạ và nhờ họ gọi cấp cứu
? Ý tưỏng này không thể có được vì não thùy Trái đã bị tê liệt. Trong
tình trạng bất lực này, tôi chỉ còn một ý tưỏng mơ hồ là Phải làm sao để
gọi cấp cứu! Những gì tôi có thể làm bấy giò là ngồi đó và đợi, ngồi
kiên nhẫn với cái điện thoại bên cạnh và kiên nhẵn trong im lặng. Tôi
ngồi đó một mình cô đơn trong ngôi nhà rộng với những ý tưỏng lạ lùng
xâm chiếm tôi. Chúng thoắt hiện thoắt biến như trêu chọc. Tôi ngồi đó
đợi chờ một giây phút tâm trí trỏ lại rõ ràng hơn, để tôi có thể nối kết
hai ý nghĩ thành ý tưỏng cụ thể để có thể thực hiện kế hoạch cấp cứu.
Tôi vẫn tiếp tục im lặng và tự hỏi “Tôi đang làm gì? Gọi cấp cứu. Gọi
cấp cứu. Tôi đang cố gắng gọi cấp cứu đây!
Trong hi vọng đợi chờ phút “tâm trí rõ ràng” sẽ đến, tôi để cái điện
thoại trên bàn viết trước mặt và chăm chăm nqó vào các con số. Ránn nhớ
lại xem Phải gọi những số nào. Tôi cảm thấy não Trái tôi trống không và
trên đầu rất đau khỉ tôi chăm chú muốn tìm cách nhớ lại. Mạch máu bên
đầu gỉụt liên hồi… “Chúa ơi! Con đau đầu quá!”.
Thình lình, một số điện thoại loáng hiện lên. Đó là số của Mẹ tôi. Tôi
mừng run vì đã có thể nhớ được số của bà. Thật là tuyệt diệu vì trí tôi
đã có thể nhớ được số điện thoại, mà còn biết là của ai nữa. Nhưng cũng
thật là vô dụng trong tình trạng khẩn cấp này. Nhà mẹ tôi cách đây mấy
tiểu bang và xa hơn ngàn dặm; gọi bà vào lúc này và nói rằng tôi bị xuất
huyết não, thì chắc bà Phải ngã ra bất tỉnh. ‘Tôi Phải tìm ra một kế
hoạch nào khác!”. Rồi tôi nhớ đến văn phòng tôi ỏ trường Harvard. Phải
rồi, tôi đã làm việc ỏ
phòng Nghiên cúu Não bộ của Đại học Harvard từ nhiều năm. Những khỉ đi
khắp các tiểu bang diễn thuyết và kêu gọi mọi người hãy đóng góp bộ óc
người chết cho Ngân hàng Não ỏ đây để dùng vào việc nghiên cứu, thì tôi
bảo họ cứ gọi số miễn phí 1-800-… của trường. Nhưng buổi sáng này tôi
không thể nhớ được gì rõ ràng cả! Tôi chỉ mơ hồ biết tôi là ai và đang
muốn làm gì. Một màn sương phủ kín trí óc
tôi. Tôi cố gắng nhớ số điện thoại văn phòng. “Tôi Phải gọi bạn ỏ văn phòng.
Nhưng… số mấy?”.
Nơi làm việc, muốn liên lạc với nhau không bao giờ Phải gọi nguyên số.
Chỉ càn bấm 4 con số chót. Thành ra trong bộ nhớ của óc tôi không bao
giờ có nguyên số điện thoại của bất kỳ đồng nghiệp nào. Bỗng tôi nhận ra
các danh thiếp để trên bàn. Ò, đây là danh thiếp của trường Harvard, vì
nó có dấu hiệu đặc biệt. Cầm lên, tôi biết là danh thiếp của người bạn
mà văn phòng sát bên tôi. Nhưng tôi không đọc được số điện thoại. Các
con số bây giò, dưới mắt tôi, chỉ là những vệt đen vô nghĩa. Tên của
người bạn, giáo sư tiến sĩ Stephen Vincent, cũng vậy. Tôi không còn khả
năng nhận diện chữ nghĩa nữa.
Cuối cùng, sau gần một tiếng đồng hồ cố gắng trong mệt mỏi và đau nhức,
với những chớp lóe sáng ngắn ngủi trong đàu, tôi đã bấm được mấy số trên
điện thoại mà có hình dạng giống như số trên danh thiếp. Cầm ống nghe
lên tai, tiếng nói quen thuộc của Vincent – đồng nghiệp ngồi sát văn
phòng tôi – sao nghe như tiếng của một con dã nhân, tôi không hiểu gì
cả. Và tôi cũng lên tiếng, nhưng không ra
tiếng. Tôi cố dùng hết hơi sức từ trong buồng phổi hét lớn: “Tôi là
Jillẽ Tôi cần giúp đỡ”, Về sau, Vincent kể lại là anh ta cũng chẳng nghe
tôi nói được gì, chỉ nghe tiếng “gầm gừ‘ của dã thú; nhưng Vincent nhận
ra giọng của tôi và thấy tôi trể hơn nửa giờ rồi, biết là tôi có chuyện
nên đã vội mang xe đến đón. Thì ra tôi đã không còn khả năng ngôn ngữ
đọc, viết, nói… gì nữa, sau khi các tế bào não Trái
bị tràn ngập trong vũng máu. Nhờ vào não bộ Phải, tuy tôi không hiểu
Vincent nói gì, nhưng nghe ra “cách nói” nhẹ nhàng và quan tâm của anh,
tôi yên trí anh hiểu tôi nói gì và sẽ đến giúp. Cho nên lúc ấy tôi thấy
an tâm. Tôi đã làm hết sức mình một công tác thật “khó khăn” và tôi đả
thành công.
CHƯƠNG 5
KHI BÁN CẦU NÃO TRÁI NGỪNG HOẠT ĐỘNG
Trong lúc ngồi chờ bạn đồng nghiệp đến chỏ đỉ bệnh viện, tôi chợt nhớ là
Phải gọi bác sĩ gia đình. Tôi ít khi đi bác sĩ vì tình trạng sức
khỏe-quá tốt và cũng vì tôi rất bận rộn. Bây giờ Phải báo cho bác sĩ của
tôi biết là tôi Phải vào “cấp cứu”. Tôi mới đi bác sĩ cách đây 6 tháng,
nên danh thiếp vẫn còn trong xấp trên bàn viết và vì cái dấu hiệu
Harvard rất dễ nhớ. Dễ nhớ, nhưng không Phải dễ tìm. Tôi quên là tôi
không còn khả năng phân biệt chữ nghĩa hoặc con số. Tôi nhìn mãi các
danh thiếp nhưng không thể chọn ra tấm nào là của bác sĩ tôi. Tất cả chữ
nghĩa và con số trên danh thiếp chỉ còn là những chấm đen dưới mắt tôi
bấy giờ. Chán nản lẫn hãi hùng, tôi nhận ra là khả năng tiếp xúc với
ngoại vật của tôi đã tồi tệ hơn tôi tưỏng. Mắt tôi không còn phân biệt
được hình dáng và màu sắc của mọi vật thể xung quanh. Ngay cả thân thể
tôi, tôi cũng không phân biệt nó là thể đặc hay thể lỏng, nên không còn
dám di động từ chỗ này sang chỗ khác. Và trí nhớ dài hạn hay ngắn hạn
cũng không còn. Thật là một công việc đáng sợ khi Phải chỉ ngồi yên đó
với một đầu óc im vắng, trống không như lặng chết, trong tay cầm một xấp
danh thiếp và cố gắng nhớ xem mình Phải làm gì! “Tôi là ai? Tôi đang
làm gì đây?” là câu hỏ không có
câu trả lời, bỏi đầu óc không còn hiểu được thực trạng của ngoại cảnh.
Và tôi cũng mất đi cảm giác Phải gấp rút tới bệnh viện. Nhưng cũng kỳ lạ
thay, phần tiền đình của não bộ Trái vẫn còn giữ được ý tưỏng là tôi
Phải đến bệnh viện. Cơn đau nhói trẻn đầu thỉnh thoảng đưa lại những
giây phút “sáng suốt” khiến tôi nối kết được với thực tại, biết Phải làm
gì và làm thế nào. Cuối cùng, tôi đã lựa ra được tấm danh thiếp của bác
sĩ riêng nhờ vào dấu hiệu trường Harvard ỉn trên góc Trái. Ở thời điểm
này, cái ý nghĩ “nói chuyện qua điện thoại” cho tôi cảm giác thật là kỳ
lạ. Sao mà khó hiểu quá vậy? Làm sao mà chỉ bấm vào mấv con số. mà môt
người ngồi ỏ đâv lai có thể nói chuyện với một người ỏ xa trong một
không gian khác biệt? Và người này nói mà người kia nghe và hiểu?
Vi tôi sợ sẽ mất sự chú ý về công việc đang làm, tôi đẩy xấp danh thiếp
qua một bên. Não bộ tôi đang đi dần vào sự phân hóa trầm trọng, sự hiện
hữu của các con số trước mắt tôi dàn trỏ nên kỳ lạ như chưa tùng thấy
bao giờ. Tôi ngồi đó, im lặng, thần trí như tỉnh như mê. Tôi nhìn nhũng
con số lạ lùng trên danh thiếp và trên điện thoại, rồi cố gắng bấm đều
đặn từng con số ngoằn ngoèo trên danh thiếp
giống với con số ngoằn ngoèo trên điện thoại. Tôi Phải lấy ngón tay trỏ
của bàn tay Trái che lại những số vừa bấm xong, để ngón tay trỏ của bàn
tay xụi bên Phải không lẫn lộn. Tôi Phải làm như vậy vì không còn nhớ
được cái gì mới vừa làm. Cảm giác mệt mỏi vì đã làm một việc quá sức
khó, tôi còn lo âu là tôi sẽ quên mát mình đang muốn làm gì. Tôi Phải
lặp đi lặp lại trong đầu: “Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết
não. Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết não”. Nhưng khi điện
thoại đàu kia reo và tôi cố gắng lên tiếng, tôi chết điếng cả ngưòỉ khi
khám phá ra tôi không còn nói được. Tôi vẫn nghe được câu tôi muốn nói
vang lên trong đàu, nhưng thực tế âm thanh không phát ra ỏ miệng vì
thanh quản đã không còn làm việc. Ngay cả tiếng ồ ồ như dã nhân mà tôi
đã gọi bạn đồng nghiệp mới đây, cũng không còn. “Chúa ơi! Con không thể
nói. Con không thể nói nữa”. Sợ đầu dây kia nghĩ rằng đây là có người
gọi “phá đám” và họ sẽ gác máy, tôi vội cố hết sức bình sinh từ buồng
phổi, hét lên: “Đừng gác máy; xin đừng gác máy”. Thì tôi chỉ nghe được:
“Uhhhh, ahhh, thhhhhhh, thhhhììzzzzăa…”.
Nhưng rồi điện thoại cũng được chuyển cho bác sĩ. Cũng may, bác sĩ của
tôi mới vào tới văn phòng. Nghe một hồi, bà cũng đoán được tình trạng
của tôi, nên đã bảo tôi đi đến bệnh viện Mount Auburn. Nhưng tôi nghe
mà không hiểu được gì. Bà Phải ôn tồn kiên nhẫn lặp lại thật chậm mấy
lần, tôi mới hiểu. Thì ra, khi nghe tiếng nói của ngưòi khác, tôi không
còn khả năng phân biệt được âm thanh và nghĩa lý của âm thanh. Tôi có
cảm giác càng lúc tôi càng không thể liên lạc được với thế giới bên
ngoài. Lần đầu tiên, tôi nhận ra mình không Phải là không thể bệnh, là
“bất tử’. Không Phải như cái máy vi tính bị “yếu” hay “chậm” thì tắt nó
đi, rồi “mỏ”trỏ lại thì nó sẽ mạnh và nhanh hơn. Tôi nhận ra con người
sống không Phải chỉ nhờ các tế bào cơ thể khỏe mạnh, mà còn Phải có bộ
óc với các tế bào thần kinh
liên lạc với nhau một cách thích hợp và hữu hiệu.
Bây giờ thì tôi cảm thấy cái chết đã gần kề. Mặc dầu não bộ bên Phải cho
tôi cảm giác an lành vô hạn, tôi thực sự chưa muốn chết. Tôi vẫn cố
gắng trong tuyệt vọng nắm giữ những gì còn cung cấp được cho tôi từ não
thùy Trái. Tôi biết hiện trạng đã làm tôi không còn là người bình
thường. Ý thức của tôi đã trỏ nên mơ hồ, không còn khả năng phân biệt,
phân tích và phán đoán những dữ kiện xảy ra
chung quanh. Không còn sự vận hành của não thùy Trái để nhận biết ra tôi
là một cá nhân với hệ thống sinh học đặc biệt gồm những cơ phận riêng
lẻ kết hợp, não thùy Phải đã tự do đưa tôi vào một vùng tâm thức “bình
an và vui tươi” chưa bao giò được biết.
Trong khi ngồi im lặng nghĩ đến cái chết trong an lạc, tôi tự hỏ mình có
thể trỏ nên bất lực đến mức độ nào khi bộ óc Trái bị hư hại đến không
thể cứu vãn được. Tôi thử ước đoán có bao nhiêu mạch thần kỉnh đã bị hư
hỏng, ảnh hưỏng đến phần trí tuệ cấp “cao” và liệu có hi vọng gì thiết
lập chúng lại. Tôi không muốn bao năm đã bỏ công ra ăn học đến trình độ
này, rồi bỗng dưng Phải chết ỏ cái tuổi đời
rất trẻ, hoặc bị liệt bại trí năng thành người vô dụng. Nghĩ đến đây,
tôi gục đầu vào tay và bật khóc. Rồi tôi cầu nguyện thầm thì trong tâm,
“Lạy Chúa, đừng bắt con chết; đừng để con chết!…”. Trong sự ỉm vắng vô
cùng đó, tôi nghe văng vẳng lời khuyên, “Hãy bình tĩnh; yên lặng, và chờ
đợi…”. Tôi thấy an ổn trong tâm hơn.
Ngồi trong phòng khách chò bạn đến cứu mà tôi tưỏng như vô tận. Nhưng
rồi anh bạn cũng đến. Tôi không nói được gì, chỉ dùng tay Trái đưa ra
tấm danh thiếp bác sĩ gia đinh. Anh gọi ngay bác sĩ để hiểu rõ lời chỉ
dẳn, rồi chỏ tôi gấp tới bệnh viện Mount Auburn.
Sau một hồi chậm chạp để điền giấy tò theo thủ tục, tôi được đưa di chụp
hình bộ óc. Bấy giờ tôi vẫn còn tỉnh đôi chút để nghe được kết quả đúng
như tôi đã tự chẩn đoán lúc ỏ nhà, là tôi đã bị một loại tai biến đứt
mạch máu rất ít khi xảy ra, ỏ não thùy Trái, khiến não thùy này hiện
đang bị tràn ngập trong vũng máu. Tôi được cho uống sơ khởi một thứ
thuốc cầm máu và chống sưng, rồi được bỏ lên xe cấp cứu đưa sang bệnh
viện lớn chuyên khoa gần bên. Tôi còn nhớ được người y tá theo xe lo cho
tôi rất tận tình với tấm lòng của người lương y. Anh ta sửa lại chiếc
mền đắp cho tôi ấm và che bớt ánh sáng cho tôi không bị nhức mắt. Anh
lại vỗ nhẹ vai tôi và an ủi, “Cô không sao, không sao đâu!”. Những cử
chỉ này thật quý giá đối với bệnh nhân trong tình trạng nguy cấp.
Sau đó, hình như tôi đã mê man. Tôi đã thoát khỏ mọi lo âu, phiền muộn.
Chuyên chết sống bây giò là chuyện của bệnh viện và các bác sĩ chuyên
khoa ỏ đó. Tôi đã làm hết mọi sự tôi có thể làm. Tôi chỉ biết rằng suốt
buổi sáng này tôi đã chứng kiến từng giai đoạn suy thoái của cơ thể và
các mạch thần kinh ỏ não bộ Trái của tôi.
Trong suốt 37 năm nay, lúc nào tôi cũng vui vẻ và hãnh diện vì các DNA
của tôi đã tinh vi sắp xếp cho tôi có một cơ thể khỏe mạnh, lỉnh hoạt và
đầy sức sống. Nhưng giờ thì hình như các mạch năng lực của khối tế bào
cơ thể đang sắp dừng hoạt động. Sáng hôm nay, trước trưa ngày 10 tháng
12 năm 1996, các dòng điện trong cơ thể tôi như tắt dàn. Khi cảm thấy
năng lượng thoát ra từng khối lớn khỏi cơ thể, thì ý thức của tôi cũng
dần dần không còn điều động hay liên hệ gì được với các giác quan và tứ
chi. Tôi biết tôi không còn là người đạo diễn của cái thân thể này nữa.
Chung quanh tôi bây giò trỏ nên thật im lặng. Trong cái vắng bặt của
hình ảnh, âm thanh, mùi vị và cảm giác, tôi không còn chút gì lo sợ và
đau đớn nữa. Và cũng như phần lớn mọi người sắp chết, tôi ước ao được
tỉnh táo trỏ lại để được chứng kiến mình về đâu trong sự chuyển tiếp
trọng đại này.
CHƯƠNG 6
CHỈ CÒN NÃO TRÁI HOẠT ĐỘNG
Đến bệnh viện chuyên khoa, tôi được đưa vào trung tâm cấp cứu mà nơi đó
ồn ào như một tổ ong khổng lo. Thân thể tôi đã trỏ nên nặng nề và bất
động. Nó đã mất hết tất cả nội lực, giống như cái bong bóng xì hơi và
xẹp hẳn. Nhân viên bệnh viện bu quanh tôi. Ánh đèn chói chang và âm
thanh ồn ào đã làm cho thân tôi đau đớn như bị một đám côn đồ hành hạ.
Tôi như đã gần chết mà họ cứ hỏi những câu tôi không hơi sức đâu để trả
lời. Mà ví tôi có muốn trả lời, họ cũng không thể nghe và hiểu được.
‘Điền những câu trả lời vào bản này; cầm và bóp Trái banh này; ký tên
vào đây…”. Họ bảo với tôi như vậy khi tôi đang nửa tỉnh nửa mê. Và tôi
đã nghĩ, “Thật là vô lý. Các người không thấy tôi đang gần chết rồi đây
hay sao? Hãy chậm chậm với tôi và hãy kiên nhẫn một chút. Các người làm
đau tôi quá”. Họ càng cố mạnh tay để làm cho tôi tỉnh lại thì tôi càng
ráng trốn sâu vào nội tâm để tránh sự thô bạo của họ. Tôi cảm giác như
bị họ nắn bóp, đâm, chém, và đau đớn như một con đĩa bị rắc vôi. Tôi
muốn la lên, “Hãy để tôi yên!” nhưng tiếng la không thoát được ra khỏi
cửa miệng. Rồi tôi bất tỉnh, như một con vật bị thương đã tuyệt vọng
thoát ra khỏi những bàn tay đang cấu xé nó.
Khi tôi tỉnh dậy một lúc sau bữa trưa hôm đó, tôi rất ngạc nhiên thấy
mình vẫn còn sống. (Tôi cảm thấy vô cùng biết ơn các bác sĩ và y tá đã
hết sức cứu tôi sống lại, mặc dù không ai biết làm sao tôi có thể hồi
phục và hồi phục tới mức độ nào.) Tôi đang mặc áo của nhà thương và nằm ỏ
phòng riêng. Vì không còn chút hơi sức nào, tôi nằm như một đống sắt
vụn nặng nề không thể nhúc nhích. Tôi không
cảm nhận được thân thể tôi dài ngắn tới đâu. Vì không còn ý niệm về
không gian ba chiều, tôi tưỏng như tôi bao trùm cả vũ trụ. Nhịp máu trên
đầu vẫn còn làm tôi đau như búa bổ. Mỗi hơi thỏ hít vào như cực hình ỏ
be sườn. Còn ánh đèn chói vào mắt thì như lửa đốt trong bộ óc. Không
thể kêu với ai, vì không nói được, để tắt bớt ánh sáng, tôi trỏ mình một
cách khó khăn úp mặt vào tấm trải giường. Tôi không nghe được gì ngoài
nhíp tim đều đặn. Những nhịp tim này mạnh và lớn đến nỗi làm bộ xương
rung động theo và nhức nhối các thớ thịt. Tôi muốn oà khóc như một đứa
bé sơ sinh thình lình Phải tiếp xúc với một môi trường hỗn tạp. Không
còn khả năng nhận biết mình là ai, quá khứ đã làm gì và hiện tại ra sao,
tôi như đứa trẻ trong cơ thể một người lớn. Chỉ vì não thùy Trái của
tôi không còn hoạt động!
Rồi có hai chuyên viên bước vào phòng. Họ xì xào những gì thì tôi không
thể hiểu. Nhưng nhìn cách họ nói với các điệu bộ thì tôi biết tình hình
của tôi thật nghiêm trọng. Vói những tấm ảnh chụp não bộ của tôi có cái
lổ hổng trắng khổng lồ ỏ giữa não, không cần Phải là một tiến sĩ chuyên
môn về giải phẩu não bộ cũng biết rằng lổ hổng kia không nên có ỏ vị trí
đó. Bộ óc Trái của tôi như vậy là đã bị máu tràn ngập và nguyên cả não
bộ sưng lên vì đã bị thương. Trong ỉm lặng, tôi cầu nguyện: “Tôi không
nên ỏ lại đây lâu hơn nữa! Tôi buông bỏ tất cả! Sức sống của tôi không
còn và sự sống của tôi cũng đã ra đi. Thật là không Phải khi tôi còn
quyến luyến ỏ lại đây. Lạy Chúa toàn năng, con bây giò đã là Một cùng
với vũ trụ. Con đã hòa đồng với dòng sông Vĩnh cữu tới mức độ không thể
trỏ lại đòi sống này được nữa. Vậy mà con hãy còn bị ràng buộc ỏ đây. Bộ
óc mong manh của cái thùng chứa sinh học này đã hư hỏng và không còn
thích hợp cho một cá thể thông minh nữa! Con không còn thích hợp ỏ lạỉ
đây!”.
Không còn bị ràng buộc tình cảm vói bất cứ người nào và vật gì xung
quanh, tiềm thức của tôi đã tự do trôi theo dòng sông An lạc. “Thả tôi
ra. Để tôi đi. Tôi buông bỏ tất cả!”. Tôi muốn chạy trốn khỏ cái thân
xác đau đón và rối loạn vận hành này. Trong một thóang, tôi cảm thấy hết
sức tuyệt vọng rằng mình đã còn sống sót. Toàn thân tôi bây giờ lạnh
ngắt, nặng nề và đau đớn vô cùng. Những mệnh lệnh
từ bộ óc đến thân thể đã không còn hữu hiệu đến nỗi tôi không còn nhận
ra hình thể vật chất của tôi. Tôi có cảm giác tôi là một sinh vật bằng
điện mà có một bộ phận bị chạm mạch nên bốc khói và tan chảy. Tôi trỏ
thành vật phế thải, bị bỏ qua một bên. Nhưng tôi vẵn còn ý thức. Ý thức
này khác với cái ý thức tôi biết trước kla. Bỏi vì cái ý thức trước kia
giúp tôi biết được thế giới bên ngoài. Những chi tiết này được sắp xếp
và cất giữ trong các mạch điện của não bộ. Bây giờ các mạch điện đó
ngừng hoạt động, tôi trỏ nên bất động và vụng v’ê với cái ý thức mới.
Làm sao tôi có thể là tiến sĩ Jill Taylor khi tôi không biết cô ta là
ai, đã làm gì, kiến thức ra sao và ưa thích những gì trong cuộc sống
này?
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên bị xuất huyết não với nỗi hãi hùng cay đắng
nhưng ngọt ngào. Khi não thùy Trái không còn hoạt động bình thường được
nữa, tôi mất đi ý thức về giới hạn của thân thể vật chất. Tôi cảm thấy
mình như vị thân trong cổ tích, bị nhốt ngàn năm trong lọ nhỏ, vừa thoát
ra khỏi lọ và lớn trùm trong không gian. Năng lượng tỉnh thàn thoát ra
khỏi thân xác, ò ạt như con cá voi khổng lồ đang lướt nhanh trên mặt đại
dương với sức sống mãnh liệt. Khi cơ thể vật chất không còn giới hạn,
tôi cảm thấy một niềm an vui trùm khắp mà tôi chưa từng thấy trong đòi.
Và với tâm thức đang cuồn cuộn trong dòng chảy an lành và thanh tịnh đó,
tôi thấy rõ ràng là không làm sao tôi có thể bắt ép cái khối năng lượng
lớn lao này quay trỏ lại vào tấm thân nhỏ bé của tôi. Được vào cảnh
giới Cực Lạc là một sự trốn chạy tuyệt vời của tôi khi não Trái bị tàn
phá. Tôi như đang hiện hữu ỏ một vùng trời thật xa lạ – xa lạ hẳn vói
những thông tin mà tôi được biết lâu nay. Một điều rất rõ ràng là trong
thế giới này, cái
“Tôi” không còn nữa! Cái “Tôi” mà tôi được dạy dỗ Phải giữ gìn và trau
chuốt từ bé đến lớn, đã không còn sống sót sau tai họa xuất huyết. Tôi
cũng biết là tiến sĩ Jill Taylor đã chết vào buổi sáng xuất huyết não
này rồi. Vậy ai còn sống sót?
Không còn cái Trung tâm ngôn ngữ ỏ bán cầu Trái bảo “Tôi là tiến sĩ
Taylor, là nhà nghiên cứu tế bào não bộ; tôi ỏ địa chỉ này và có thể
liên lạc bằng số điện thoại này…”, tôi thấy mình không có bổn phận đóng
vai cô ta nữa. Điều này cũng thật kỳ lạ về mặt cảm giác; nhưng bỏi vì
không còn mạch thần kinh nào nói cho tôi biết cô ấy tính tình thế nào,
ưa gì, ghét gì, cái Ngã của cô ra sao, có hay chỉ trích, phê bình người
khác không? Tôi thật không có chút ý niệm gì về cô ấy cả! Lại thêm,
trên thực tế, với những thiệt hại lớn lao về mặt sinh học – một nửa bộ
óc đã không còn hoạt động- tôi càng không nên bắt chước giữ vai trò cô
ta. Cô tiến sĩ Jill Taylor thực sự không còn hiện hữu. Tôi đã không biết
gì về cuộc đòi cô,những liên hệ bạn bè, việc làm, thành công, thất bại
của cô thì làm sao tôi đóng vai cô được?
Mặc dù tôi buồn rầu về cái chết của não thùy Trái và về cô gái đó, hiện
tại tôi cảm thấy được giải thoát và rất nhẹ lòng. Được biết cô tiến sĩ
Taylor đã lớn lên trong nhiều phiền muộn, sân hận và cả một đời mang
theo những mối hỉ nộ mà chắc cô phải tốn kém rất nhiều năng lượng để
nuôi dưỡng chúng! Cô đã nhiệt tình trong công việc, với lý tưỏng và rất
năng động. Nhưng dù cô có dễ thương hay đáng kính, trong cái hình hài
hiện tại của tôi, tôi không thể tiếp tục cuộc sống như cô.
Tôi đã không còn nhớ đến người anh bệnh hoạn, đến cha mẹ tôi đã ly dị từ
lâu và những công việc làm đã mang lại cho tôi rất nhiều ưu tư và áp
lực. Tóm lại là tôi không còn chút trí nhó nào về quá khứ. Tôi cảm thấy
vừa giải thoát, vừa an lạc.
Trong suốt cuộc đời 37 năm qua, hình như lúc nào tôi cũng nhiệt tình lo
làm đủ mọi thứ việc, mà thứ nào cũng phải hoàn tất theo hạn kỳ. Trong
ngày đặc biệt hôm nay, lần đầu tiên tôi học được ý nghĩa của bài học về
sự sống: Chỉ là đơn giản… sống!
Khi não thùy Trái không còn làm việc và trung tâm ngôn ngữ đã đóng, đồng
hồ sinh học trong tôi cũng ngừng. Thời gian không còn được phân chia ra
từng giờ phút ngắn ngủi nữa. Thòi gian với tôi bây giờ là thời gian
“mỏ“, không có kỳ hạn; nên tôi không còn phải gấp gáp cho việc gì cả.
Tương tự như dạo chơi trên bãi biển hay chỉ thơ thẩn ngoài vườn hoa, tôi
bây giờ đổi từ ý thức phải làm đúng giờ theo thời biểu đã định của não
thùy Trái, thành ý thức chỉ “là” sống, “là” hiện hữu của não thùy Phải.
Tôi siêu việt chính mình từ cảm thấy nhỏ nhoi và biệt lập sang vĩ đại và
hòa đồng với vũ trụ. Tôi không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ, lo lắng về
quá khứ hay tương lai; mà chỉ còn khả năng hiểu biết bằng hình ảnh trong
hiện tại, ỏ đây và bây giờ. Và cái hiện tại, ỏ đây và bây giò… luôn
luôn đẹp vô cùng!
Khi tôi không còn thấy mình là một vật thể cứng rắn, có hình dáng cô’
định, một đơn vị sinh học riêng biệt với các hữu thể chung quanh, thì
tất cả ý niệm về cái “Tôi” cũng hoàn toàn biến mất. Về phương diện sinh
học, ỏ trình độ hiểu biết sơ đẳng nhất, con người chỉ là một hiện hữu có
dạng chất lỏng. Thật vậy, tôi là một chất lỏng! Mọi thứ chung quanh
chúng ta, giữa chúng ta, trong chúng ta, về chúng ta, hay chính bản thân
ta đi nữa…đều chỉ là những nguyên tử và phân tử của những chát lỏng
đang rung động trong không gian. Vậy thì cái “Tôi”, cái “Ngã” của chúng
ta nằm ỏ chỗ nào? Mặc dù trung tâm ngôn ngữ ỏ não thùy Trái thích định
nghĩa “ngã” là TỒI, một cá nhân riêng biệt, một khối đặc và cụ thể,
nhưng người có học nào cũng biết chúng ta đều được hình thành như nhau
bằng hàng ngàn tỉ li tỉ tế bào với nước trong đó và tất cả chúng ta đang
“là” trong sự rung động không ngừng với tần số cực kỳ nhanh.
Não bộ Trái của tôi đã được huấn luyện từ bao nhiêu năm để sản sinh ra
một nhận thức rằng tôi là một cá thể cứng rắn, độc nhất và khác biệt với
mọi người. Bây giờ, bỏ đi sự kiểm soát của các mạch thần kinh ỏ não bộ
Trái, não bộ Phải được tự do sinh hoạt theo cách nhìn của chân lý vĩnh
cữu. Tôi nhận ra mình không phải là một sinh vật nhỏ bé, riêng biệt và
cô độc. Tôi không phải hiện hữu độc lập mà là “liên lập” với mọi người.
Tâm hồn tôi mỏ lớn ra cùng vũ trụ và bay lượn vui tươi trong khắp biển
tròi tự do. Đối với nhiều người, cái ý tưỏng cá nhân chúng ta chỉ là hợp
chất lỏng, bỏ vào bình chứa hình gì sẽ ra dạng đó và tâm hồn chúng ta
rộng lớn như vũ trụ… làm cho cảm thấy không được “yên ổn”. Chỉ vì ý thức
từ não bộ Trái và giáo dục sai lầm đã tạo ra. Nhưng rõ ràng khoa học đã
chứng minh rằng mỗi con người chúng ta là do tỉ tỉ nguyên tử vật chát
hợp lại và nhẹ nhàng rung động. Chúng ta được kết hợp bằng hàng tỉ túi
nhỏ đầy chất lỏng trong một thế giới chất lỏng và ỏ đó tất cả đều hiện
hữu trong sự rung động. Các hiện hữu có khác nhau chỉ do mật độ tập hợp
phân bào khác nhau. Nhưng nói chung thì tất cả đều là tập hợp của âm
điện tử, dương điện tử, trung hòa tử… hài hòa trong một vũ điệu tuyệt
vời. Giữa bạn và tôi, và cả khoảng cách không gian nữa, dù là một phần
nhỏ đến đâu, cũng chỉ là nguyên tử vật chất và năng lượng mà thôi. Tan
ra là năng lượng, hợp lại là nguyên tử vật chất.
Thật sự mắt tôi không còn “thấy” các sự vật rời rạc nữa, mà là thấy năng
lượng của các vật thể quyện lẫn vào nhau, tương tự như những tranh vẽ
của trường phái Ấn Tượng. Tâm thức tôi lúc này thật tỉnh táo và tôl nhìn
thấy mọi hiện hữu đều có năng lượng quyện lấy nhau, di động cùng nhau
như cùng chảy trong một dòng sông. Tôi không còn nhận ra vật thể có ba
chiều trong không gian và cũng không phân biệt màu sắc nữa. Ngay cả khi
nhìn con người, tôi chỉ thấy họ là những khối năng lượng di động không
màu sắc, dù họ có mặc y phục nhiều màu.
Những ngày trước kia, trước buổi sáng này, khỉ tôi còn hiểu con người là
một vật thể rần, tôi có khả năng cảm thấy đau buồn vì mất mát, hoặc về
thể chát – chết hay bị thương, hoặc về tình cảm – thiệt thòi hay mất
mát. Bây giờ chỉ còn não thùy Phải hoạt động, tôi không còn thấy đau
buồn hay mất mát gì cả. Mà thấy tất cả chỉ là sự chuyển đổi từ vật chất
ra năng lượng, chứ nào có mất mát đi đâu. Cho nên hiện tại dù bị thương
nặng ỏ đầu, một cảm giác không thể quên được đã xâm chiếm hồn tôi là sự
bình an cùng cực. Vì vậy, tôi rất yên tâm.
Nhưng rồi tôi lại nghĩ ra như vậy tôi là người “bất thường”. Làm sao tôi
giải thích cho mọi người hiểu được rằng những điều tôi nói trên là sự
thật? Làm sao mọi người chấp nhận được nhận thức “Ta là một thành phần
của toàn thể và mỗi chúng ta đều có năng lực vô biên của vũ trụ?”. Nói
theo mọi người, tôi là một người bị thương nặng ỏ bộ óc. Nhưng những
điều tôi vừa trình bày được chứng nghiệm một cách khoa học từ sự quan
sát trực tiếp của một nhà khoa học về não bộ. Những điều chúng ta biết
và tưỏng” là thật về thế giới bên ngoài thật ra chỉ là sản phẩm của mấy
mạch thần kinh ỏ não bộ Trái mà thôi. Thành ra trong những năm qua, cái
“biết” của tôi chỉ là cái biết “không có thật” do não bộ Trái tưỏng
tượng ra như thật!
Hiện giờ, tôi thật sự nghĩ rằng não thùy Trái của tôi không thể nào lành
lặn lại được. Bỏi vì các tế bào thần kinh ỏ đó đã hoàn toàn tê liệt
rồi. Nhưng dù tôi không còn có thể đi đứng, nói năng, hiểu biết ngôn
ngữ, hay đọc, viết, và ngay cả không làm sao trỏ mình được trên giường
bệnh, tôi vẫn cảm thấy mình thật ’’bình yên”! Sự mất khả năng của não
thùy Trái đã làm cho não thùy Phải có cơ hội độc lập và
phát huy những nhận thức thâm sâu từ bản thể rằng tôi có năng lực mầu
nhiệm đối với đời sống. Tôi biết tôi bây giờ khác trước – vì chỉ còn nửa
bộ óc – nhưng tôi không thấy mình kém giá trị hơn trước. Vì không còn
bộ óc Trái để khen chê, phân biệt, tôi thấy mình vẫn hoàn hảo, bình
thường và vẫn xinh đẹp như thuỏ nào! (Nhưng về sau các bạn kể lại rằng,
ngày hôm đó ỏ bệnh viện tôi trông “bê bối” lắm!)
Có lẽ bạn đọc sẽ thắc mắc rằng sao tôi bị xuất huyết não mà còn ý thức
được mọi việc như đã trình bày. Thật ra, lúc đó tôi mới có bị tê liệt
não thùy Trái, chưa phải là bất tỉnh. Ý thức của tôi vẫn còn hoạt động.
Tương tự như máy vi tính, ý thức của chúng ta có nhiều lập trình mà khi
cái này tắt không dùng tới, thì cái kia sẽ dễ dàng hiện lên. Nhiều lập
trình khác nhau giúp chúng ta nhạy bén hơn trong ứng xử với thế giới
không gian ba chiều. Mặc dù phần ý thức về cái tôi và nhận thức
tôi-là-một-hữu-thể-cá-bỉệt đã mất vì bán cầu não Trái đã chết, phần ý
thức của não thùy Phải và của các tế bào cơ thể vẫn còn. Cả hai lập
trình này được tự do chạy những thông tin đã thu nhận được, mà không bị
kiểm duyệt bỏi não thùy Trái! Với sự thay đổi ý thức này, tôi phát hiện
được những nhận thức mới về con người và vũ trụ, rất bí nhiệm nhưng lại
khế hợp với Khoa học ngày nay.
CHƯƠNG 7
PHÒNG TRỊ LIỆU THẦN KINH
Khỉ các bác sĩ hài lòng về công việc cứu sống tôi đã xong, họ cho lệnh
chuyển tôi sang khu điều trị Thần kinh. Ỏ đây, tôi nhìn mọi người có
mặt như những khối năng lượng di động. Bác sĩ, y tá đến và đi như những
luồng ánh sáng chói chang. Ai cũng vội vã và họ không biết làm sao để
“trao đổi” với tôi. Bỏi vì tôi không nói được và cũng không hiểu họ nói
gì. Tôi thật là mệt mỏi và mất nhiều năng lực khỉ phải tiếp xúc với họ
trong 48 tiếng đồng hồ đầu: Họ muốn thử xem các tế bào thần kinh của
tôi đã thiệt hại đến đâu. Lẽ ra họ chỉ cần làm một cuộc thử nghiệm, rồi
chia sẻ dữ kiện với nhau thì tôi đỡ mệt biết bao. Đằng này,ai cũng muốn
có kết quả thử nghiệm của mình một cách riêng lẻ. Tôi tuy không hiểu họ
nói gì, nhưng cũng đoán được bằng cách nhìn vẻ mặt và cử chỉ của họ. Có
người quan tâm tới an nguy
của bệnh nhân khiến tôi thấy dễ chịu với họ. Họ như mang lại cho tôi
niềm tin và nhiều năng lượng. Cũng có người rất lơ là, làm việc lấy lệ
khiến tôi không an tâm và tôi như bị cướp bớt năng lượng đi. Như một y
tá mang một khay thức ăn sáng, để “kịch” lên bàn trước mặt tôi, rồi quay
đi vội vã. Tôi muốn uống nước mà không biết làm sao mỏ hộp với chỉ có
một tay. Tôi phải nhấn chuông gọi người khác vào giúp.Tinh trạng của tôi
bây giờ có khá hơn ỏ vài lĩnh vực: máu không còn chảy, đầu không còn
đau, một vài nơi của não bộ Trái vẫn chưa bị tàn phá; nhưng sự phục hồi
không phải là đơn giản. Điều đáng lo nhất là, mặc dù sự xuất huyết đã
cầm, bán cầu não Trái vẫn còn im lặng. Điều đó không có nghĩa là tôi
không suy nghĩ được, nhưng là suy nghĩ khác với bình thường, không còn
theo đường thẳng (quá khứ, hiện tại, vị lai) và chỉ bằng hình ảnh. Nghĩa
là chỉ còn có não bộ Phải làm việc.
Chẳng hạn, một bác sĩ trắc nghiệm tôi bằng câu hỏi,“Ai là Tổng thống của
nước Mỹ?”. Để cho tôi chú ý, trước hết ông ta phải làm cho tôi biết đó
là câu hỏi dành cho tôi. Khi tôi đã chú ý và nhận biết mình bị hỏi,
người hỏi phải lặp lại để tôi chú ý đến những âm thanh đã phát ra và
nhìn đôi môi xem họ đã nhóp nhép như thế nào. Nếu có ngưòi khác đang nói
ồn ào, tôi không thể nghe được. Điều này cũng tương tự như bạn nói
chuyện qua điện thoại di động mà gặp phải tiếng ồn kế bên. Cho nên người
nói phải nói thật chậm và phát âm thật rõ ràng. Sau khi nhận diện được
câu hỏ rồi, vì não bộ Trái đã bị thương, não bộ Phải mới làm việc và đi
tìm trong bộ nhớ xem hình ảnh một ‘Tổng thống” là như thế nào. Biết được
ý niệm đó rồi, đi tìm tiếp theo hình ảnh “nước Mỹ“ ra làm sao. Rồi, mới
sang tìm hiểu cách hỏi. Cách hỏi đây ỏ thì “hiện tại“, vậy người hỏ
muốn hỏi về ông tổng thống hiện tại, không Phải ông nào khác. Xong, mới
tới phàn trả lời. Lại phải đi tìm hình ảnh của ông tổng thống đương
nhiệm. Như vậy, tất cả nghĩa lý của câu hỏi và câu trả lời, tôi chỉ tìm
bằng hình ảnh, không Phải bằng chữ nghĩa. Thành ra kết quả rất lâu và
rất mệt mỏi cho tôi. Mọi người cho rằng tôi trả lời câu hỏi quá chậm,
chậm hơn thời gian quy định. Thế là tôi “thất bại” trong cuộc thử
nghiệm. Vì chỉ có não bộ Phải làm việc và chỉ cung cấp “hình ảnh”, nên
sự tìm kiếm hình ảnh trong não thùy Phải rất là chậm chạp. Tôi rất lấy
làm tiếc là những ngưòi trong giới Y học chưa hề biết điều này. Nên họ
đã không đủ hiểu biết và kiên nhẫn để xử sự thích hợp với những trường
hợp bệnh nhân như tôi. Tai biến mạch máu não là nguyên nhân hàng đầu làm
con người trỏ nên bất lực trong sự vận hành cơ thể. Và trong số người
bị tai biến, có gấp 4 lần tai biến xảy ra ỏ não bộ Trái khiến khả năng
ngôn ngữ của họ bị tê liệt và không còn nói năng hay đọc viết được.Những
người bị tai biến mà sống sót, vì vậy nên chia sẻ kinh ngiệm với nhau
để biết bộ óc của mình đã phục hồi đến đâu và cách nào.
Nếu các bác sĩ biết để ý hơn trong sự trị liệu ỏ những giờ phút đầu thì
sẽ giúp ích cho bệnh nhân phục hồi nhiều hơn. Tôi muốn các bác sĩ phải
chú ý xem xét bộ óc của bệnh nhân còn đang hoạt động như thế nào, chứ
không phải xem bộ óc có hoạt động hay không, thì mới giúp ích bệnh nhân
phục hồi được. Mỗi bệnh nhân một khác. Bác sĩ không nên dùng một tiêu
chuẩn chung để phán định mọi người. Như
trường hợp tôi, kiến thức của tôi rất mênh mông sau những năm dài học
hỏi và nghiên cứu -nhưng không làm sao “lấy ra” được từ bộ óc tê liệt.
Nói cách khác, tôi không phải là người dốt hay ngu; tôi chỉ là người
“bệnh”.
Hãy tưỏng tượng, bỗng nhiên bạn bị mất dần các khả năng tiếp nhận và
phản ứng với ngoại cảnh của mình. Trước hết, bạn không còn phân biệt
nghĩa lý của âm thanh đến tai bạn. Bạn không phải điếc, nhưng bạn chỉ
nghe tiếng người nói với bạn như tiếng ồn ào, không nghĩa lý gì. Bạn
muốn nói, lại nói không ra tiếng; hoặc ra tiếng mà không ai hiểu được;
hoặc nói ý này mà ra lời kia. Rồi, bạn không còn
thấy được hình dáng của mọi vật chung quanh. Bạn không phải đui, nhưng
chỉ vì không còn ý thức về không gian ba chiều và các màu sắc. Bạn không
còn khả năng phận biệt sự di chuyển của các vật, cũng như hình vóc giới
hạn lớn nhỏ của chúng.
Cũng không phân biệt được các mùi thơm thúi, hôi tanh xung quanh; chỉ
biết cái khí quyển bao trùm đó làm bạn ngộp thỏ. Rồi ánh sáng mọi loại,
từ ánh sáng đèn đến ánh sáng mặt trời, cho bạn cảm giác như chúng là
những mũi dao bén đâm vào óc bạn, đau nhức không thể chịu nổi. Đó mới là
một vài mô tả về tình trạng người bị tai biến não!
Cả buổi chiều hôm đó, tôi trốn vào giấc ngủ. Chỉ có giấc ngủ mới làm ý
thức của tôi khép lại trước thế giới bên ngoài. Mới không còn bị các y
tá, bác sĩ quấy rầy làm tiêu tan hết những năng lượng rất ít còn sót lại
trong tôi. Thật tình nếu tôi còn ỏ bệnh viện lâu hơn sự cần thiết, tôi
đã không bao giờ hoàn toàn hồi phục. Vậy mà, vì tình trạng quá nặng, tôi
cũng đã mất 8 năm, trong kiên trì và cương quyết để phục hồi.
CHƯƠNG 8
NGÀY THỨ HAI SÁNG HÔM SAU
Tôi giật mình thức giấc thật sớm sáng hôm sau chỉ vì một sinh viên y
khoa chạy vội vào phòng để lấy lịch sử bệnh lý. Tôi nghĩ thật là vô lý,
vì cô sinh viên này không hề biết tôi là một bệnh nhân sống sót sau trận
xuất huyết não; tức là tôi không còn khả năng nghe, hiểu và nói được
điều gì. Tôi nghĩ nhiệm vụ hàng đầu của bệnh viện là phải làm cho bệnh
nhân cảm thấy an tâm để phục hồi năng lực.
Cô bé sinh viên này không khác nào con dơi Dracula bay đi hút sinh lực
của người bệnh. Cô ta muốn mọi thứ từ tôi, mặc dù tình trạng tôi rất
mong manh; nhưng không chia sẻ với tôi được điều gì Cô ta đang chạy đua
với đòng hồ, vì sợ trễ thì bị giáo sư khiển trách, nhưng rõ ràng cô ta
đã thất bại. Trong hối hả, cô rất thô lỗ trong cung cách đối xử vớí bệnh
nhân. Cô ta nói nhanh với tốc đô một trăm dặm một phút và hét to với
tôi như tôỉ là người lảng tai! Rốt cuộc cô không lấy được tin tức nào từ
tôi, vì tôi phải nhắm mắt lại để bảo vệ số năng lượng còn ít ỏi trong
người. Bài học lớn nhất tôi học được vào ngày hôm đó là tôi phải là
người điều khiển công cuộc phục hồi của tôi; không nên để tùy thuộc vào
bác sĩ, y tá hay chuyên viên nào hết. Chữa trị Tai biến mạch máu não ỏ
bệnh viện chỉ là:
1- Nếu xuất huyết, thì cho thuốc cầm máu và thuốc chống sưng;
2- Nếu nghẽn mạch máu, thì cho uống thuốc loãng máu và thông động mạch.
Thế là bác sĩ đã xong nhiệm vụ.
Còn lại việc lớn lao và lâu dài là phục hồi các chức năng của cơ thể:
như tai nghe, mắt thấy, miệng nói, tay chân cử động… là việc của chính
bệnh nhân và người trong gia đình. Việc quan trọng nhất của người bệnh
là… Ngủ! Ngoài việc vận động tay chân và bắp thịt, bệnh nhân Phải ngủ
cho đủ giờ, ngủ bất cứ khỉ nào cảm thấy mệt; ngủ càng nhiều càng tốt, vì
giấc ngủ giúp cho não bộ có thời giờ phục
hồi các chức năng.
Đối với mọi người, sự phục hồi lại chức năng để trỏ lại bình thưònq là
vấn đề ý muốn và ý chí. Phần tôi, đây là một sự lựa chọn khó khăn, phức
tạp của một người trí thức. Một đằng thì, sau khỉ bệnh ỏ bán cầu não
Trái, tôi được sống trong tâm trạng vô cùng an vui và hạnh phúc, không
còn lo lắng, buòn phiền hay bị áp lực của công việc. Ỏ đó, mọi sự mọi
vật đều tốt đẹp. Tinh thần tôi lúc nào cũng tự do
và bay bổng trong an lành. Trong niềm an lạc vô bờ đó, tôi tự hỏi biết
bao nhiêu lần rằng mình hồi phục để làm chi? Mặc dù, nếu có được bộ óc
Trái vận hành trỏ lại, thì nó sẽ trả lại tôi những tài năng vốn có từ
bao năm để thi thố với đời. Nhưng trong tình trạng bất lực của tôi, tôi
quan sát hiện tại ỏ bệnh viện và nhận thấy mọi người, từ bác sĩ đến y
tá, lao công, đều là những người đầy mệt mỏi và khổ sỏ vì
áp lực công việc. Thì thử hỏi tôi có nên trỏ lại đời sống bình thường
như họ để mà tiếp tục chịu khổ sỏ hay không? Có một người nổi danh nào
đó đã viết rằng: “Có nên tham gia cuộc chạy đua của bầy chuột, bằng cách
trỏ thành con chuột?”.
Thành thật mà nói, những cảm nhận về một đời sống an lạc như tôi vừa
trải nghiệm trong mấy hôm nay làm tôi quá đổi yêu thích, hơn là trỏ lại
cuộc sống đầy áp lực của mấy mươi năm qua. Tôi nhất quyết không từ bỏ
cuộc sống mới này chỉ vì nhân danh hồi phục. Tôi rất thích được biết
rằng mình chỉ là chất loãng, biết tâm mình là một với vũ trụ và sống hòa
điệu với mọi vật chung quanh. Tôi thấy
mình bị mê hoặc với cách sống không cần những ngôn ngữ giả dối và sai
lệch, mà chỉ cần nhìn vào điệu bộ là đã hiểu nhau với tất cả chân tình.
Mà trên hết là tôi say mê cái cảm giác an lành từ trong sâu thẳm của tâm
hồn lúc nào cũng tràn ngập cả người tôi.
Đến chiều cùng ngày, người bạn vào cho hay ngày mai mẹ tôi sẽ đến bằng
máy bay và ỏ lại lo cho tôi. Mới đầu, tôi không hiểu ý niệm “mẹ” là gì.
Tôi đã mất hẳn ý niệm này và Phải lục lọi, tìm kiếm trong đầu cả buổi
cho tới trước khi đi ngủ. “Mẹ, mẹ… Mẹ là gì?” Tôi cứ lặp đi lặp lại mãi
như người lục kiếm tài liệu trong mấy ngăn kéo đựng hồ sơ. Sau cùng tôi
hiểu ra, biết Mẹ là ai, và mừng rỏ biết ngày mai bà sẽ đến. Tôi mang cả
niềm vui vào giấc ngủ an lành.
CHƯƠNG 9
NGAY THU BA, ME TU XA DEN GIUP
Vào buổi sáng ngày thứ ba, tôi được đưa sang phòng khác và nằm chung với
một bệnh nhân khá đặc biệt. Ngưòi này bị chứng “phong giật” (kinh
phong) nên cả đầu được quấn khăn trắng với các điện cực chung quanh để
theo dõi phản ứng của các mạch thần kinh. Bà ta trông rất khỏe về thể
chất. Có lẽ quá buồn chán vì bị bắt nằm ỏ đây, bà tìm cách bắt chuyện
với bất cứ ai bước vào phòng thăm tôi. Phần tôi
thì chỉ muốn im lặng để được yên nghỉ. Ngoài những chuyện phiếm của bà,
tiếng máy truyền hình ồn ào do bà mỏ cũng làm tôi tiêu tán hết năng lực.
Tôi nghĩ bệnh viện chẳng hề quan tâm tới sự hồi phục của tôi, mới đưa
tôi vào chung phòng với bệnh nhân này. Bỏi không nói được, tôi không có
lời phản đối nào cả với ban giám đốc.
Hôm nay, các giáo sư về não bộ – bạn của tôi và các bác sĩ của bệnh viện
đã họp mặt trong phòng tôi, nghiêm trọng bàn về kế hoạch chữa trị sắp
tới. Vừa lúc ấy thì mẹ tôi bước vào. Sau khi lên tiếng chào mọi người,
bà đến bên giường nhìn thẳng vào tôi như ước định bệnh tình, rồi bà dỡ
chăn êm đềm nằm sát xuống bên tôi, choàng tay ôm chặt lấy như che chỏ
tôi những ngày còn bé. Trong mắt ngưòi mẹ,
tôi không còn là một giáo sư tiến sĩ của đại học nổi tiếng Harvard nữa,
chỉ là đứa con gái bé bỏng của mẹ đang bệnh nặng và cần được mẹ chăm
sóc, dỗ dành. Tôi chui rúc vào lòng êm ấm của bà với tất cả sự biết ơn.
Tôi có cảm giác được mẹ tôi sinh ra lần thứ hai. Bấy lâu nay tôi vẫn
nghĩ mình đã trưỏng thành và có thể sống đời độc lập. Giờ mới biết trong
hoàn cảnh này, tình mẹ quý báu biết là dường nào!
Các bác sĩ bệnh viện và các bạn chuyên môn của tôi, căn cứ trên đồ hình
đã chụp được, quyết định rằng tôi phải được mổ sọ ra để lấy đi khối máu
khô lớn bằng trái banh golf và cắt bỏ mạch máu dị hình đã tạo ra cơn
xuất huyết vừa rồi. Nếu không làm vậy, tôi sẽ có cơ nguy bị vỡ mạch máu
lần thứ hai. Họ còn nói thêm rằng trước kia tôi hay bị nhức đầu nhưng
uống thuốc không bao glờ hiệu quả.
Đó là vì, như đồ hình cho thấy, tôi đã có những lần bị xuất huyết nhỏ và
máu tự đông đặc nên không có chuyện gì xảy ra. Cho nên, mẹ tôi đồng ý
với quyết định của mọi người. Nhưng tôi lắc đầu phản đối. Mổ sọ ra là
chuyện tối nguy hiểm đối với bất kỳ nhà thần kinh não bộ học nào. Mẹ tôi
cảm nhận được ỏ tôi nỗi bất an trong đôi mắt, nên nói: “Không sao đâu
con! Con không phải giải phẩu gì cả. Mẹ sẽ bảo vệ
con và chống lại sự quyết định của mọi người. Bất cứ điều gì sẽ xảy ra,
mẹ sẽ chăm sóc con. Nhưng mà, nếu con không lấy mạch máu hư hỏng trong
đầu ra, rồi bị xuất huyết não lần nữa, mẹ sẽ mang con về ỏ chung với mẹ
và lo lắng cho con suốt đời!”. Mặc dù tôi rất yêu mẹ và biết bà là người
mẹ tuyệt vời, cái ý nghĩ phải ỏ chung với mẹ cả đời làm tôi “hết hồn”!
Con cái trưỏng thành không bao giò ỏ chung và
phụ thuộc vào cha mẹ trong văn hóa Mỹ; nhất là đối với người có ăn hoc
như tôi. Cho nên hai ngày sau, tôi đồng ý cuộc giải phẩu. Bây giờ, bổn
phận của tôi là phải làm sao cho sức khỏe khá hơn để đủ sức trãi qua
cuộc mổ xẻ này. Điều quan trọng cần biết là : Bệnh nhân sống sót sau cơn
tai biến Phải biết bổn phận là tự mình tập vận động để phục hồi các
chức năng của cơ thể, đừng đợi chờ lệnh của bác sĩ. Phải tập vận động
ngay sau khi đã được cấp cứu. Tức là ngay sau khi bác sĩ đã giúp cho
thoát khỏ tử thần. Đừng có mãi nằm một chỗ dù mệt đến đâu. Cố gắng ngồi
dậy cử động, đi đứng; càng ráng sức chừng nào, càng tốt cho sự hồi phục.
Tôi bắt đầu vận động bằng cách lúc lắc mình như người khỏe
ngồi ghế xích đu. Nằm thẳng trên giường, không còn hơi sức, mà ráng lúc
lắc rướn mình lên thì thật khó lắm. Lúc lắc độ mươi phút thì đã thấy
mệt, nghỉ hoặc ngủ một chút rồi tiếp tục. Phải kiên nhẫn và có ý chí.
Rướn mình lên như muốn ngồi dậy là để tập bắp thịt hông mạnh lên và vận
động trỏ lại. Tập như vậy đôi ba ngày thì đã tự mình ngồi dậy được khi
đang nằm trên giường. Thành ra phải tập với sự hăm hỏ và quyết tâm! Đứa
trẻ sơ sinh tập lật, tập ngồi, trườn, bò, đứng chựng, đi lẩm đẩm… như
thế nào và mất mấy năm thời gian, thì người sống sót sau tai biến mạch
máu não cũng phải làm gần như vậy. Tùy theo bệnh nặng nhẹ mà kết quả mau
hay chậm. Người nuôi bệnh phải biết rằng người bệnh là một đứa
bé trong thân thể người lớn. Đối xử với đứa bé như thế nào. thì đối với
người bệnh thế ấy. Không được nặng lời, to tiếng hay chẽ bai. Phải vui
vẻ, bày tỏ sự thương yêu, dịu dàng, kính trọng và không tiếc lời ngợi
khen khỉ người bệnh thành công trong việc tập ngồi, tập đứng, tập đi,
tập nói, tập viết…
Vận động một lúc cảm thấy mệt, tức là đã hết năng lực. Người bệnh này
không có năng lực nhiều nên luôn luôn cảm thấy mỏi mệt. Cách bồi bổ năng
lực là… ngủ. Vừa thoát chết thì phải ngủ nhiều lần trong một ngày. Tôi
hay thưỏng cho tôi sau mỗi lần vận động là nằm nhắm mắt ngủ. Đó là cách
để bộ óc sắp xếp lại các mạch tế bào thần kinh, giúp cho ta có thêm năng
lực hơn. Cũng như văn phòng làm việc
ngổn ngang giấy tờ. Ngưng làm việc một lúc, lo sắp xếp trật tự trỏ lại
thì việc làm có hiệu quả hơn. Phải ngủ bao nhiêu giờ một ngày đêm tùy
theo lệnh của bộ óc, không phải lệnh của bác sĩ hoặc bất kỳ ai. Ngủ một
đêm 9 giờ hoặc 11 giờ cũng không sao, mỉễn thấy trong người khỏe khoắn
khỉ tỉnh giấc. Và ngủ thêm giấc trưa vài ba giờ nữa. Đó là cách để cho
năng lực phục hồi mau chóng.
CHƯƠNG 10
CHUẨN BỊ CUỘC GIẢI PHẪU
Năm ngày sau, tôi đã được về nhà để dưỡng sức hai tuần, rồi trỏ lại bệnh
viện để mổ sọ lấy khối máu đông và mạch máu hư ra. Bây giờ tôi phải tập
tành và học hỏimọi thứ lại từ đầu như đứa trẻ thơ. Về phương diện thể
chất: tập ăn nói, đi đứng.Về phương diện trí tuệ: tập đọc, viết, suy
luận. Tôi phải cố gắng vượt qua mọi khó khăn. Vì nếu không cố gắng thử
làm; sai, thử lại cho đến khỉ thành công thì sẽ
không thể hồi phục được. Cho nên nhiều bệnh nhân sống sót tai biến não
đã nằm yên trên giường chờ chết, bỏi không ai phụ giúp để biết phục hồi
từ đâu.Tôi cảm thấy được ân sủng của thượng đế khi có mẹ đến ỏ săn sóc.
Bà lúc nào cũng khiêm tốn nói với mọi người là bà không biết làm gì cho
tôi. Bà chỉ theo dõi ủng hộ tinh thần, khuyến khích tôi trong mọi việc
tôi cố gắng tập làm, với tình thương vô bờ của người mẹ như ngày xưa tôi
mới chập chửng biết đi. Mọi thứ tôi Phải bắt đầu từng bước. Như muốn
ngồi dậy từ trên giường nằm thì tôi Phải tập nhấc nửa thân mình lên mấy
trăm lần trong một vài ngày cho hai bắp thịt hông khỏe mạnh rồi mới ngồi
lên được. Những lúc đó mẹ tôi khen ngợi khuyến khích
không tiếc lời và tôi như đứa trẻ thơ, rất phấn khỏi khi được khen. Điều
quan trọng là tôi biết cố gắng. Tôi luôn luôn tự kỷ ám thị bộ óc mình
bằng cách nói với nó: “Nè, tôi cảm ơn và đánh giá cao việc nối kết các
mạch thần kinh này và muốn những cố gắng khác cũng được như vậy”. Có
những thực tập tôi phải lặp đi lặp lại cả ngàn lần mới được như ý. Nhưng
nếu tôi không cố gắng, không có gì tốt đẹp sẽ xảy ra. Mẹ tôi tập tôi đi
bằng cách vịn cho tôi từ giường ngủ tới phòng tắm, cách chừng 10 thước.
(Lúc bấy giờ chưa có walker – kiểu xe tập đi của trẻ con). Mà tôi phải
đi tới đi lui mấy ngày mới chập chửng đi được một mình. Mệt quá thì tôi
lăn ra giường mà ngủ! Rồi từ giường ngủ tập đi tới phòng khách.
Công việc thực tập nào cũng mất rất nhiều năng lượng và tôi mệt mỏi vô
cùng. Nhưng ngủ một giấc độ 2, 3 tiếng thì khỏe lại; và tôi tiếp tục
nữa. Cứ vậy mà tôi bận rộn tập suốt ngày. Rồi tháng này qua năm khác
không chút xao lảng. Mục tiêu đã đề ra, nhất định phải đạt được. Nếu tôi
không cố gắng, ai có thể phục hồi giùm tôi?
Một trong nhũng lý do cho sự thành công của tôi, là mẹ tôi lúc nào cũng
kiên nhẫn và dịu dàng. Không bao giò bà tỏ ra mệt mỏi hoặc cáu kỉnh vì
sự lặp đi lặp lại chẳng nên thân của tôi. Khỉ tôi vụng về nhiều lần
trong thực tập, bà luôn miệng khuyến khích, “Đáng lý còn tệ hơn nữa; con
như vậy là giỏi rồi!”. Và bà khen lấy khen để những khi tôi thành công.
Thái độ từ ái của mẹ làm tôi vô cùng cảm động và phấn khỏi. Tôi đạt kết
quả khả quan trên đường phục hồi, phần lớn nhờ sự kiên nhẫn của mẹ. Bà
lúc nào cũng cho thấy tôi giỏi vì hôm nay đã làm được việc mà hôm qua
chưa. Bà biết lựa những việc dễ, cần ít năng lực cho tôi thực tập trước,
rồi sau đó tới việc khó hơn, như ông thầy biết phuơng pháp Sư phạm. Mà
thật vậy, mẹ tôi là một cô giáo dạy Toán! Và hai mẹ con luôn luôn ăn
mừng những thành tựu tôi đạt
được. Có nhiều người sống sót sau Tai biến não than thở là họ không có
khả năng phục hồi và bỏ cuộc. Tôi nghĩ một là vì họ không kiên nhẫn và
không có người giúp họ một cách kiên nhẫn. Hai là họ không có mục tiêu
rõ rệt, không biết phải chọn làm cái nào trước, cái nào sau. Nên khỉ
“học” làm một việc mà thất bại, họ nghĩ tại họ không có khả năng để phục
hồi.
Trong tuần lễ đầu tôi đã có thể đi lại từ phòng ngủ sang phòng tắm và ra
tới phòng khách tương đối dễ dàng. Rồi mẹ hướng dẫn tôi đi vòng khắp
nhà. Sang phòng vẽ với nhiều tranh ảnh, mẹ bảo đó là những tác phẩm của
tôi. Sang phòng nhạc, tôi thấy mấy loại đàn, từ piano tới guitar và mấy
thứ khác nữa. Mẹ nói thứ nào tôi chơi cũng giỏi. Những phát hiện này làm
tôi vô cùng thích thú. Rồi mẹ còn bảo tôi là nhà Khoa học Não bộ nổi
tiếng, muốn đem kiến thức của mình phục vụ con người. Nghe kể về cuộc
đời tôi sao nhiều màu sắc và dễ thương quá, tôi càng quyết tâm nỗ lực
phục hồi nhanh chóng để sống lại cuộc đời đầy ý vị của chính tôi.
Mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều thư và thiệp gỏi từ khắp nơi trong
nước. Tuy tôi chưa đọc được,nhưng mẹ tôi đọc giùm. Hầu hết họ chúc tôi
mau lành bệnh để trỏ lại làm việc. Có người viết: ‘Tiến sĩ Jỉll, Tuy cô
không biết tôi là ai, nhưng tôi biết khỉ cô diễn thuyết ỏ thành phố
Phoenix. Xin hãy mau hết bệnh để trỏ lại với chúng tôi. Chúng tôi yêu
quý cô. Công việc của cô rất cần và quan trọng đối với chúng tôi lắm!”.
Tôi treo các thiệp chúc lành này lên tường khắp nhà. Tôi nhìn đâu cũng
cũng thấy tình yêu thương của mọi người tỏa sáng quanh tôi. Điều này
cũng là động lực giúp tôi phải nhanh chóng phục hồi. Rồi tôi học về màu
sắc, phân biệt hình ảnh trong không gian ba chiều, trả lời câu hỏi có
tính cách suy luận, diễn dịch hoặc loại suy. Mục đích của những thực tập
này là để kích động lại sự nối kết các mạch thần kinh bị tê liệt. Tôi
biết tất cả kiến thức của tôi nằm trong não thùy Trái, nhưng tôi chưa mỏ
được những ngăn tủ chứa đựng các kiến thức này. Tôi chưa biết được các
mạch thần kinh nào đã tê liệt
và hư hại tới đâu.
Rồi tôi học đọc. Đây là một công việc hết sức khó khăn. Làm sao mà những
nét vẽ ngoằn ngoèo (chữ) li ti lại có thể đọc ra thành tiếng được?
Trước hết, nhận diện và phát âm các mẫu tự. Xong rồi ráp vần. Những âm
kép, âm đầu và âm cuối. Thật là rắc rối; thật là kỳ lạ. Chữ lại có thể
phát ra thanh! Đôi khi có những chữ khó phát âm quá, vì đã tập mãi mà
không xong, tôi cãi lại mẹ: “Không phải đâu mẹ; chữ nàv không thể phát
ra âm thanh được!”. Mẹ tôi chỉ mỉm cười, trìu mến lặp lại mấy lần đến
khi tôi nhìn miệng mẹ và nghe cách phát âm thật rõ, rồi lặp lại đúng
hệt. Mẹ tôi reo lên và khen tôi “giỏi quá”!
Tiếp theo phần phát âm, tôi học về nghĩa lý của chữ. Làm sao nhớ hết mỗi
chữ có một nghĩa khác nhau? Và nhiều chữ có cùng một âm mà nghĩa lại
khác? Rồi những chữ chỉ vật cụ thể còn dễ nhớ; những chữ chỉ các ý niệm
trừu tượng thật là nhức đầu. Trung tâm ngôn ngữ của não bộ Trái đã đóng
kín, nên kho “ngữ vựng” của tôi không mỏ ra được. Thật là thiên nan vạn
nan. Tôi rất mệt mỏi và mất nhiều năng lực cho việc thực tập này.
Tôi mất vài tháng để thực tập đọc và hiểu khá thông suốt, vì những mạch
thần kinh ỏ phần này được nối kết lại và sau cùng “kho” ngữ vựng được mỏ
ra. Tôi như người đã tìm được “chìa khóa” mỏ kho, tôi đã có thể đọc tất
cả các sách báo một cách tự nhiên.
Mẹ lại dẫn tôi ra đường học “đi bộ”. Thế nào là đi trên lề đường, tránh
dẫm lên sân cỏ. Thế nào là mặt đường cao thấp, Phải bước cẩn thận. Thế
nào là đi trên tuyết, dễ trơn trợt; Phải cẩn thận hơn. Thế nào là dấu
hiệu đèn xanh đỏ khi băng qua đường. Xem ra tôi học lần này nhanh. Chứng
tỏ các mạch thần kinh ỏ đây không bị thiệt hại lắm.
Rồi mẹ dẫn đi chợ học mua sắm. Thật là khổ sỏ và mệt mỏi khi phải tiếp
xúc với người lạ. Ánh sáng và âm thanh trong chợ làm tôi khó chịu. Con
người lại đối xử với nhau không phải lúc nào cũng dễ thương. Phần lớn họ
phân biệt trong đối xử. Họ nhìn cung cách ngơ ngác của tôi thì biết là
tôi bất thường. Có người tỏ ra hiểu biết, nhưng cũng có người chen lấn
không nhường nhịn. Họ không biết tôi bệnh và đang học hỏi. Họ nghĩ là
tôi ra đường làm cản trở sinh hoạt của họ.
Tới phần học trả tiền, tôi lại gặp khó khăn không ít. Tôi nhìn tiền của
nước mình mà như một ngưòỉ ngoại quốc, không biết giá trị chúng như thế
nào. Lại không biết cộng trừ ra sao. Cuối cùng, với các bài tập “đếm số”
xuôi và ngược, tôi nhận ra mạng thần kinh về ‘Toán học” đã bị thiệt hại
nặng. Phải mất mấy năm, bộ phận này mới phục hồi.
CHƯƠNG 11
GIẢI PHẪU SỌ
Khoảng 6 giờ sáng ngày 27 tháng 12 năm 1996, tôi lại vào bệnh viện với
mẹ để mổ sọ, lấy ra khối máu khô bằng trái banh golf trong đầu và cắt bỏ
mạch máu đã hư. Mỗi khi nói về lòng can đảm, tôi không thể không nhắc
đến tâm trạng tôi buổi sáng đi mổ sọ này. Bỏi vì tôi biết trước rằng,
nếu bác sĩ thận trong và khéo tay, mọi việc sẽ êm xuôi và tôi sẽ thấy
đầu tôi trở lại nhẹ nhàng và tinh thần sảng khoái. Còn bác sĩ chỉ vụng
về và sơ hở một chút, tôi sẽ trở thành người bại xuội và vĩnh viễn không
bao giờ nói được. Nhưng tôi không còn chọn lựa. Dù sao, họ cũng là
những bác sĩ tài giỏi nhất của Hoa Kỳ.
Khi bác sĩ chuẩn bị gây mê, để tự trấn an, tôi khôi hài: “Nầy bác sĩ,
tôi là nhà khoa học 37 tuổi, còn độc thân. Tôi để tóc dài từ nhỏ. Xin
đừng cạo trọc đầu tôi coi xấu tội nghiệp”. Nói tới đó thì tôi đã thiếp
đi. Mẹ tôi sốt ruột ngồi đợi bên ngoài cả ngày. Đến mãi xế chiều, các
bác sĩ mới tươi cười xuất hiện báo với mẹ tôi ca mổ đã thành công và tôi
đang nằm ở phòng hồi sức.
Khi tỉnh lại, tôi cảm thấy khác hẳn trong người. Đầu nhẹ nhàng, tâm hồn
êm ả, vui tươi. Tôi thấy lạc quan, yêu đời. Sờ lên đầu phía trái, mới
hay phần tóc ỏ đây đã bị cạo sạch. Một vết mổ hình chữ U vuông vức, cạnh
khoảng 5 phân, đã được vá lại trông khá xấu xí nhưng rất gọn gàng và
sạch sẽ. Với lại, phần tóc nửa đầu bên kia vẫn được chừa nguyên, nên
trông không đến nỗi tệ lắm!
Mẹ tôi vừa đến bên giường ở phòng hồi sức, đã hỏi liền: “Hãy nói với mẹ
vài tiếng”. Điều bà sợ nhất là nếu bác sĩ chạm tới thần kinh ở Trung tâm
ngôn ngữ và phải cắt bỏ đi một phần, thì tôi sẽ không còn nói được suốt
đời. Tôi đã trả lời bà được vài tiếng rất nhỏ. cả hai đều mừng đến rơi
nước mắt. Vậy là ca mổ đã quá thành công. Tôi phải ỏ lại 5 đêm để bác sĩ
yên tâm là vết mổ hoàn toàn không phản ứng. Tuy nhiên trong 48 tiếng
đồng hồ đầu, lúc nào tôi cũng yêu cầu y tá cho mấy túi nước đá áp vào
vết mổ thì đầu mới yên; nếu không, bên trong đầu như bị lửa đốt!
Đêm cuối cùng tôi ỏ lại bệnh viện là Giao thừa năm1996 bước sang 1997.
Ngồi một mình bên cửa sổ giữa khuya, nhìn ánh đèn rực rỡ của thành phố
Boston đang đón mừng Năm mói, tôi ngẫm nghĩ không biết năm mới sẽ mang
lại cho tôi điều gì. Chỉ mỉa mai và nực cười cho tôi là: một nhà khoa
học chuyên về não bộ mà lại bị Tai biến xuất huyết mạch máu não! Nhưng
tôi cũng tự chúc mừng niềm An lạc tôi đã tìm được, và bài học quý báu
học được về sự vận hành của não bộ. Tôi cũng bàng hoàng trước một thực
tế hãi hùng: tôi là người sống sót sau cơn xuất huyết não!
CHƯƠNG 12
NGƯỜI BỆNH CẦN BIẾT
Phục hồi bình thường trỏ lại là điều mà tôỉ nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần
hằng ngày. Có đáng công sức bỏ ra để phục hồi và sống lại cuộc đời trước
kia không? Với nhận thức mới về đời sống trong những ngày xuất huyết
não, tôi có sẩn sàng từ bỏ niềm an vui vô tận để trỏ lại cuộc sống đầy
đau khổ và phiền muộn hay không? Trong tình trạng não bộ Trái còn yếu
thế và bị não bộ Phải chi phối, tôi vẵn còn phân biệt thế nào là hạnh
phúc và thế nào là khổ đau. Sống trong nhận thức của não bộ Phải, con
người sẽ cảm thấy hạnh phúc và an lạc. Sống theo nhận thức của não bộ
Trái, con người phải hứng chịu đau khổ và ưu phiền. Mọi sự chỉ là do Ý
thức mà ra! Mà muôn được hồi phục, điều quan trọng là tôi cần cỏ những
người săn sóc có khả năng bên cạnh trợ giúp.
Nhưng tại sao tôi phải phục hồi để trở lại đời sống hỗn tạp và đầy đau
khổ, trong khi tôi đã có thể sống an bình và thanh tịnh với niềm vui mầu
nhiệm của đất trời mà tôi đã tìm được, khỉ vắng mặt sự phê phán, tranh
chấp, ngã mạn của não bộ Trái? Hay đặt câu hỏ cho rõ hơn: Tại sao tôi bị
Xuất huyết não, làm chấm dứt nhận thức sai lầm trong mấy mươi năm và
tại sao tôi có thể khám phá ra một thế giới an bình và thanh tịnh với
nhận thức mới của não bộ Phải?
Tôi bỗng trực nhận rằng Thượng đế đã ban cho tôi cơ hội trãi nghiệm thế
giới an lành từ trong nội tâm sâu thẳm – mà ai cũng có thể đạt được bất
cứ lúc nào. Và tôi tin rằng bất cứ ai cũng có thể chứng nghiệm hiện
trạng thế giới Cực Lạc này từ nhận thức của mình qua não bộ Phải. Với
hiểu biết đó, tôi rất hào hứng mà nghĩ rằng, sự phục hồi của tôi sẽ giúp
mọi người nhìn lại mình cho đúng đắn để đón
nhận một quan niệm sống tốt đẹp hơn – không những cho người bị tai biến
não hồi phục, mà cho bất kỳ ai còn có bộ óc! Lúc ấy, thế giới sẽ là nơi
thanh bình, hạnh phúc cho mọi người và mọi loài.
Thành ra qua cơn Xuất huyết Não của tôi, quyển sách này chỉ để khẳng
định rằng: Sống trong An lạc và Hạnh phúc không Phải là điều xa vời,
không tưỏng như các nhà Tôn giáo cố gắng truyền rao. Đó là một thực tế
có từ trong não của bạn.
Muốn có được, hãy làm cho não Trái ỉm đi ảnh hưỏng của nó và hãy bước
qua não Phải. Khi mỗi người đều tìm được bình an và hạnh phúc cho chính
mình thì thế giới này mới có thể là nơi thanh bình và trật tự cho mọi
người.
Còn việc phục hồi, bạn Phải có mục tiêu rõ rệt, có ý chí và lòng tự tin
và Phải có ngưòỉ giúp bạn một cách tận tâm và tận tình. Việc phục hồi có
thể kéo dài vài tháng đến vài năm; 10 năm, 20 năm hay suốt đòi, tùy
theo sự nặng nhẹ của Tai biến. Tôi đã từng nghe nhiều bác sĩ bảo: “Nếu
bạn không thể phục hồi trong 6 tháng sau tai biến, thì không thể phục
hồi”. Điều đó hoàn toàn sai. Chính tôi, một nhà khoa học não bộ, biết
đúng cách để phục hồi cho chính mình, cũng đã Phải mất 8 năm trời! Bỏi
vì tế bào não không bao giờ chết, trừ phi chúng bị bỏ quên. Chúng thực
sự chỉ bị tê liệt. Khả năng thay đổi để thích ứng của tế bào bộ óc con
người thật là kỳ diệu. Tế bào thần kỉnh của tôi đã tự chữa lành và vận
hành trỏ lại theo sự thực tập kiên trì ngày qua ngày. Và nhất là số
lượng giờ ngủ Phải thích đáng theo nhu cầu bộ óc – đừng quá ít. Chính
những giấc ngủ đã giúp bộ óc hồi phục. Các nhà khoa học ngày nay đều
nhận biết rõ ràng rằng não bộ có khả năng thay đổl tuyệt vời trong sự
nối kết các tế bào thần kinh qua những kích thích từ bên ngoài. Tính
chất này đã giúp cho não bộ tái lập những chức năng đã mất.
Kiên nhẫn, quyết tâm, có người chăm nuôi tận tình, ngủ nhiều giờ cho đủ
sức là những điều kiện tối cần để phục hồi. Người bệnh cũng cần không
gian yên tĩnh để bảo trì năng lượng. Sự ồn ào của chỗ ỏ, của người tò mò
đi thăm viếng vừa làm cản trỏ người bệnh Phải tập luyện, vừa phí phạm
năng lượng vốn ít ỏi của người bệnh khỉ Phải tiếp khách. Năng lượng (sức
khỏe) của người bệnh rất giới hạn, khiến cho rất mau mệt. Sự ồn ào
chung quanh làm mất năng lượng nhiều nhất. Sự tập luyện cũng tốn nhiều
năng lượng, nên Phải tập từ dễ tới khó. Như vậy bệnh nhân mới phấn khỏ
vì thấy mình thành công.
Thêm nữa, để cho sự phục hồi tiến triển và đạt kết quả, chỉ nên chú ý
đến những điều bệnh nhân hoàn thành, đừng chú tâm đến những thất bại. Bộ
óc biết điều chỉnh nên bệnh nhân sẽ làm được về sau. Bệnh nhân, thật sự
là một đứa bé trong thân xác người trưỏng thành, nên rất cần được
thương yêu, khen ngợi, quan tâm và khích lệ của mọi người trong gia
đinh. Bất cứ học hỏi điều gì, Phải xem người
bệnh như chưa biết gì hết, và Phải chỉ dẫn thật cặn kẻ, tỉ mỉ. Phải chia
những công việc “lớn”, phức tạp ra từng phần “nhỏ”, đơn giản. Như vậy
mới thấy được sự thành công dễ dàng và làm cho người bệnh phấn khỏi- đó
là điều rất cần thiết.
Đừng nên bỏn xẻn về lời khen ngợi sự thành công, tiến bộ trong việc học
hỏi của người bệnh và Phải chúc mừng từng mỗi giai đoạn đã hoàn thành.
Ngưòỉ lãnh phần chăm sóc trong giai đoạn phục hồi này Phải thật có lòng
yêu thương và kiên nhẫn. Không bao giờ được tỏ vẻ chán nản hay cao giọng
gắt gỏng, dù người bệnh có chậm chạp hay vụng về trong việc học hỏi đến
đâu. Nên có nhiều người thay phiên để tránh tình trạng mệt mỏi này, để
bệnh nhân không mất lòng tin và bỏ cuộc. Nên nhớ rằng, người bệnh không
phải “ngu” hay “chậm chạp”, mà là “bệnh”. Khi người bệnh chưa có thể nói
và nghe, người chăm sóc muốn nói gì phải kê sát gần nói nhỏ nhẹ vừa đủ
nghe, chớ không nói nhanh và hét lớn. Người bệnh chỉ nghe và nói chưa
được, không phải điếc và câm.
Trên đường dài phục hồi, tôi có dịp quan sát những cảm giác của mình.
Thật thú vị khi cảm thấy được những sự vui, buồn, mừng, giận từ bên
ngoài xảy đến trong tôi, rồi đi. Có khi cái “giận” đến làm cho cả cơ thể
run lên, rồi thoát ra ngoài.
Càng thú vị hơn khi tôi thấy mình làm chủ được những tình cảm đó, bằng
cách dang tay đón nhận hay cấm cửa không cho vào, hoặc không cho trỏ
lại. Nhất là những tình cảm như giận dữ, bất mãn, khinh ghét, thù hận.
Cho nên khi Trung tâm ngôn ngữ của tôi được tái lập, tôi thường dùng nó
để ra lệnh cho não bộ Trái là tôi không muốn những tình cảm tiêu cực này
xuất hiện hay tái xuất trong mạch thần
kinh của tôi, vì chúng nó tiêu hao rất nhiều năng lượng một cách vô bổ.
Chúng ta thông thường không để ý đến điều này, nên hay “đổ thừa” cho
người khác, hoặc hoàn cảnh đã làm cho ta giận, buồn, khổ. Trong 8 năm
dài phục hồi, tôi đã quan sát và thấy rằng mình làm chủ được những tình
cảm tiêu cực và không để chúng xảy ra. Tất cả chỉ là những dữ kiện không
tốt chạy quanh trong mạch thần kỉnh mà ta có thể loại trừ khỏ não bộ dễ
dàng và không để xuất hiện trỏ lại. Thí dụ người nào xuyên tạc điều gì
về bạn, khiến bạn giận run lên. Nếu bạn không làm chủ được mình thì bạn
sẽ ôm mãi cơn giận, đến có thể mất ăn mất ngủ. Bỏi vì cái “giận” vẫn còn
lưu thông trong mạch thần kinh ỏ não Trái. Bạn phải ra lệnh “bỏ”, rồi
nghĩ đến việc gì khác vui hơn, thì cơn giận sẽ biến mất.
Khi bạn nghĩ đến chuyện vui, bạn thấy vui. Còn nghĩ đến chuyện buồn, sẽ
buồn. Vậy tại sao không nghĩ đến chuyện vui mà thôi, để cuộc đời tươi
đẹp hơn lên? Cái gì cũng phải tập luyện mới có kết quả. Như người vô
giáo dục thì hay ăn nói càn rỡ, còn người có giáo dục mở miệng ra đã
thấy đứng đắn. Bỏi vì người có giáo dục được huấn luyện chỉ ăn nói đứng
đắn mà thôi.
Cho nên, không ai có quyền làm chủ cuộc đời mình, trừ chính mình và bộ
óc. Nên không thể trách người khác. Không ngoại cảnh nào có thể làm mình
mất đi sự an tĩnh của tâm hồn, nếu mình biết tự làm chủ. Như một thuyền
trưỏng lái tàu giữa biển khơi, tôi không thể hoàn toàn làm chủ vận mệnh
trước phong ba, bão tố; nhưng chắc chắn tôi có toàn quyền định đoạt về
cách tiếp nhận những biến cố đó mà vui hay buồn, xem như tháchh đố hay
thất bại !
CHƯƠNG 13
CON ĐƯỜNG DÀI PHỤC HỒI
Tôi thường được hỏi nhiều nhất là: “Phải mất bao lâu cô mới được hồi
phục?”. Và tôi vui vẻ đùa lại: “Hồi phục cái gì?”. Nếu hồi phục là trở
lại con người như xưa thì chưa, mà tôi cũng không muốn. Tôi không muốn
trở lại như xưa với tánh tình nóng nảy, hay phê bình chỉ trích, thiếu
lòng từ ái với mọi người. Đó vốn là sản phẩm của não bộ Trái. Từ lúc não
bộ Trái tê liệt vì trận Xuất huyết, tôi được diễm phúc học thêm điều
mới từ ý thức của não bộ Phải: là không nên nghe nhiều, thấy nhiều những
chuyện thị phi, và phải có lòng nhân với mọi tầng lớp người. Thêm vào
đó, trong lòng tôi lúc nào cũng yên tĩnh với niềm vui vô hạn. Phục hồi
thể chất, nghĩa là làm cho tay chân cử động, đi đứng được…, chỉ là
chuyện nhỏ. Phục hồi tinh thần với nhận thức mới từ ý thức của não bộ
Phải, mới là việc quan trọng cho đời người, theo ý nghĩ của tôi. Vết mổ
trên đầu lành mau chóng vì mẹ tôi săn sóc rất sạch sẽ và kỹ lưỡng, không
để bị nhiễm trùng làm độc. Chỉ có vết sẹo là như bị tê suốt 5 năm trời,
và 3 lổ khoan cần thiết cho cuộc giải phẩu thì tới năm thứ 6 mới lành
hẳn.
Giữa tháng hai, sau ngày bị tai biến, thì tôi đã thử đi một mình ra
đường trong một thời gian ngắn. Ngôn ngữ lúc bấy giờ cũng đã tạm đủ cho
những chào hỏi bình thường. Tôi thấy tự tin và muốn có thêm thử thách
mớỉ.
Bây giờ, mẹ mới dạy tôi tập lại lái xe. Điều khiển một cái thùng kim
loại lớn và chạy trên bốn bánh với tốc độ khá nhanh với một đám người
khác chung quanh cũng làm như vậy, trong khi họ còn ăn, uống, hút thuốc,
và… nói chuyện bằng điện thoại di động; làm cho tôi thấy sinh mạng tôi
quá mong manh và đời sống là món quà quý giá vô cùng! Lại nữa, tôi nói
chuyện với mọi người thì được, nhưng đọc chữ trên đường thì hãy còn khó
khăn vì bộ óc chưa giải mã kịp chữ nghĩa trên các bảng đường khỉ xe chạy
với tốc độ nhanh. Thành ra khỉ tôi hiểu kịp nghĩa chữ thì xe đã chạy
qua khỏ chỗ tôi muốn quẹo.
Đến giữa tháng ba, mẹ tôi thấy tôi đủ khả năng để đi lại một mình, dù
hãy còn hơi yếu. Nhưng dù sao tôi cũng có bạn bè tới lui gúp đỡ. Bà
quyết định rời tôi để về lo cho người anh vốn đã bị chứng Tâm thần phân
liệt từ nhiều năm qua. Trước khi đi, bà an ủi tôi: “Con hãy an lòng. Khỉ
con cần mẹ, chỉ một cú điện thoại, là mẹ sẽ đến ngay với con bằng
chuyến phi cơ đầu tiên!”. Nghe đến đây, một phần
trong tôi cảm tháy tự hào vì được thêm tự do; nhưng phần lớn còn lại là tôi… sợ muốn chết!
Mấy tuần kế tiếp, cuộc trắc nghiệm lớn đầu tiên xem tôi đủ khả năng trở
lại với đời sống thường nhật chưa, là buổi diễn thuyết ngắn mà tôi được
mời từ trước khi bị bệnh. Tôi phải xem đi xem lại các DVD mà chính tôi
đã diễn thuyết từ trước, xem tôi đã ăn nói thế nào và điệu bộ ra làm
sao. Việc này tập tôi chú tâm nhiều hơn trong buổi trình diễn. Một người
bạn đã lái xe đưa tôi đến hội trường diễn thuyết. Mọi sự đã diễn ra
trong tốt đẹp. Não bộ Trái của tôi như vậy là đã khá phục hồi. Rồi tôi
bắt đàu làm việc trên máy vi tính vài giờ một ngày. Rồi trỏ lại chỗ làm,
làm việc tạm thời hai ngày một tuần. Công việc nghiên cứu của tôi không
có gì khó.Cái khó là việc lái xe ngày hai buổi đi về, giữa đám đông xe
bất cẩn.
Đi bộ hằng ngày để các bắp thịt có cơ hội vận động, là một bắt buộc. Đi
bộ làm cho tôi cảm thấy có sức mạnh trở lại. Tôi cố gắng tạo thói quen
trong những năm đầu là đi bộ mỗi ngày 5 km, và bảy ngày một tuần. Tôi
vừa đi vừa quay vòng tròn hai tay để bắp thịt vai và cánh tay làm việc.
Khi mà mắt còn thấy cơ thể là một chất lỏng, thì sự đi bộ hằng ngày giúp
cho mắt và não bộ nhận diện lại các vật hiện hữu trong không gian ba
chiều.
Đến tháng thứ tám, tôi đã có thể đi làm việc bình thường suốt tuần.
Nhưng thật cũng không có nhiều hăm hở và nhiệt tình như ngày xưa. Cái
mệt mỏi vẫn còn đeo đuổi bên mình không sao hết được. Sau cơn xuất
huyết, tôi cảm thấy tôi không còn nhiều thời gian trên Trái đất này. Tôi
muốn về làm việc nơi sinh trưỏng để gần gũi cha mẹ, nhất là khi hai
người đã ly hôn. Thế là vào cuối năm, tôi trỏ về ỏ gần Đại học tiểu bang
nhà, Indiana, nơi tôỉ đã tốt nghiệp Tiến sĩ. Tôi giúp trường soạn thảo
một lịch trình cho những người sống sót sau Tai biến biết cách phục hồi
năng lực. Dần dần, óc Trái tôi đã mở được ngăn tủ kiến thức khổng lồ và
cũng đồng thời tiếp nhận được dữ kiện mới với khối lượng lớn cùng lúc.
Năm sau, tức năm thứ hai sau ngày sống sót, tôi đã đi dạy các lóp Giải
phẩu tế bào não bộ cho sinh viên Y khoa ỏ đại học Indiana. Tôi cũng quân
bình giấc ngủ và giờ làm việc cho thích hợp. Từ ngủ 11 giờ một đêm, tôi
rút xuống còn 9 giờ rưỡi, cộng với vài giờ ngủ trưa. Không ngủ đủ như
vậy, não bộ không đủ thời gian để điều dưỡng và hồi phục các mạch tế
bào.
Sang năm thứ tư thì tôi mới có khả năng làm nhiều việc cùng một lúc.
Chẳng hạn, vừa làm bếp vừa trả lời điện thoại về những công việc ỏ
trường. Trước đó, muốn làm gì tôi chỉ có thể chăm chú vào một việc mà
thôi. Chỉ có một lĩnh vực mà bộ óc tôi gặp khó khăn khỉ phục hồi: đó là
toán học. Phải tới năm thứ tư, bộ óc mới biết lại được toán cộng. Nửa
năm kế mới biết thêm toán trừ và nhân. Và đến năm thứ năm mới biết làm
toán chia, dù rằng tất cả làm bằng máy tính!
Tôi tập thói quen không bao giờ than thở về sự mất mát khả năng của
mình. Trái lại, mỗi ngày tôi cảm ơn hàng trăm lần về sức phục hồi và sự
kỳ diệu của bộ óc. Tôi cũng cảm ơn não bộ Phải đã cho tôi ý thức mới về
sự an lành và thanh tịnh của tâm hồn sau cơn biến động khủng khiếp vừa
qua.
Đến năm thứ tám, tôi đã trở lại bình thường. Nhận thức về không gian ba
chiều đã lập lại. Tôi không còn cảm thấy tôi là chất loãng nữa, mà là
khối rắn và riêng biệt.
Tôi thường chơi trượt nước trên mặt hồ va vượt qua nhiều chướng ngại.
Trò thể thao này giúp cho nhãn quan và não bộ phản ứng đồng nhịp với
thân thể khi gặp Phải khó khăn.
Hiện nay, tôi đã trỏ lại cuộc sống bình thường, nhưng hoàn hảo hơn
trước. Tôi vẫn làm việc cho đại học Harvard và đi diễn thuyết khắp nước,
kêu gọi mọi người đóng góp thêm não bộ cho việc nghiên cứu và trị liệu
các bệnh tâm thần. Tôi dạy lớp cho sinh viên Y khoa ỏ đại học Indiana.
Tôi làm cố vấn về thần kinh não bộ cho Viện Trị liệu Ung thư Não. Tôi
nói chuyện trên Truyền hình, ỏ các buổi Hội thảo khoa
học, trả lời các buổi phỏng vấn trên Tạp chí về sự kỳ diệu của bộ óc. Và
quan trọng nhất là chương trình giúp mọi ngưòi tìm lại Hạnh phúc và
niềm An lạc của đời mình qua sự hiểu biết về não bộ Phải, như tôi.
CHƯƠNG 14
PHAT HIEN MOI QUA CON XUAT HUYET NAO
Trãi qua cuộc hành trình bất ngờ vào trong chiều sâu của não bộ qua cơn
Xuất huyết, tôi cảm tạ Đất Tròi đã cho tôi phục hồi toàn bộ từ thể lực,
trí năng, tình cảm và tinh thần. Thật ra, trong thời gian 8 năm để phục
hồi, tôi đã trãi nghiệm một thách thức tâm lý lớn lao bỏi nhiều lý do.
Khi tôi mất khả năng sinh hoạt của bán cầu não Trái, tôi mất luôn cả cá
tính mà rõ ràng là liên hệ mật thiết với não cầu này. Mà cá tính này có
rất nhiều nét tiêu cực, không mấy tốt đẹp cho mình lẫn cho người, như:
nóng giận, hay cãi lẫy, tự cho mình luôn luôn đúng, cái gì của mình là
hơn hết! Phục hồi sinh hoạt bán cầu não Trái có nghĩa là phục hồi cả các
nét cá tính tiêu cực đó. Ngày xưa tôi không
biết thì thôi. Nhưng nay, sau cơn Xuất huyết não, tôi đã ý thức được
những phẩm tính tốt đẹp biểu lộ từ bán cầu Phải, thì các cá tính tiêu
cực trên không thể chấp nhận được. Nhưng Phải làm sao? Cũng như bạn
thích chiếc áo, thích kiểu may, nhưng không ưa màu sắc của nó. Hoặc mua,
hoặc không. Nhưng còn não cầu của bạn?
Làm sao tôi có thể cầu tiến cố gắng ăn học giỏi để có địa vị cao sang
trong xã hội, mà không coi thường người dốt nát với số phận thấp hèn
chung quanh? Làm sao tôi biết quý giá trị đồng tiền, biết dành dụm không
phí phạm để trỏ thành dư giả, giàu có mà không sanh tánh muốn có thêm,
tham lam và keo kiệt? Làm sao tự cho cái Tôi, cái Ngã của mình là nhất
thiên hạ mà lại có thể đem lòng thương yêu,
chia sẻ, cảm thông và bình đẳng với mọi người? Và quan trọng nhất là cái ý thức con người là Một với vũ trụ.
Tôi tự hỏi không biết phần ý thức nào của bán cầu Phải sẽ bị mất đi khỉ
bán cầu Trái hoàn toàn hồi phục. Nhưng tôi không muốn mất ý thức con
người với vũ trụ là một. Tôi không muốn bộ óc chạy quá nhanh theo danh
lợi của cuộc đời khiến tôi Phải đánh mất mình. Tôi không muốn thấy rằng
mình là một cá nhân độc lập với toàn thể. Tôi cũng không muốn từ bỏ cái ý
thức rằng cuộc đời là nơi thanh tịnh, an vui cho mọi người và mọi loài.
Và như vậy, bán cầu Phải của tôi Phải làm sao để mọi người nhìn tôi mà
không cho tôi là người bất thường?
Các nhà khoa học não bộ ngày nay đều đồng ý sự vận hành khác biệt của tế
bào hai não bộ là điều đĩ nhiên. Nhưng sự khác biệt về cá tính và tâm
lý từ hai bán cầu thì ít khi được bàn thảo đến. Thông thường, các nhà
khoa học đều chế giễu não bộ Phải coi như là đồ bỏ, không đáng để ý chỉ
vì nó không biết nói (không có Trung tâm ngôn ngữ) và không biết về luận
lý thẳng hàng (quá khứ, hiện tại, vị lai).
Những nghiên cứu gần đây của Tiến sĩ Jekill và người phụ tá, còn mô tả
bán cầu Phải như là bộ phận không thể kiểm soát được, có khuynh hướng
bạo động, một bộ phận dốt nát, ngu xuẩn, vô ý thức; bộ phận mà nếu người
ta không có thì tốt hơn. Còn với sự ngược lại lớn lao, não bộ Trái được
ca tụng là nhà ngữ học, có thể biết đủ mọi thứ ngôn ngữ, nhà toán học;
lại biết phân biệt thời gian, biết phương pháp học, biết luận lý học,
rất thông minh và là trung tâm ý thức của con người.
Trước khỉ bị Tai biến, não bộ Trái độc quyền điều khiển ý thúc của tôi
từ nhân sinh quan đến vũ trụ quan, lấn át cả não bộ Phải. Đến khi bệnh,
não bộ Trái không còn khả năng áp đặt nữa, não bộ Phải mới được tự do
biểu lộ phần ý thức của mình Nhờ vào tai nạn chết người này, mà tôi, một
nhà não bộ học, được trãi nghiệm và khám phá những điều mới lạ kỳ thú
về não bộ Phải, mà các nhà khoa
học não bộ không hề biết và cũng không “may mắn” bị Xuất huyết não để
được biết! Hai bán cấu não trong cùng một bộ óc không những vận hành
khác nhau về phương diện thông tin trong kỉnh mạch tế bào, mà còn rất
khác nhau trong sự tiếp nhận và giải thể các dữ kiện nhận được, khiến
cho cách nhìn nhân sinh và vũ trụ hoàn toàn khác nhau.
Tai biến não của tôi đã cho thấy trong tận cùng ý thức của não bộ Phải
là bản thể của con người, lúc nào cũng thanh tịnh và an vui. Cái ý thức
trong tận cùng sâu thẳm này – mà Phật giáo gọi là “bản ngã” – lúc nào
cũng tỏa ra sự bình yên, an lạc và tình yêu thương cho mọi người và mọi
loài.
Nói như vậy, dĩ nhiên không có nghĩa là tôi bị mắc chứng thần kinh nhiễu
loạn vói nhiều cá tính khác nhau, khi vầy khi khác. Vấn đề không chỉ
đơn giản như vậy. Xưa nay chúng ta không thể nhận biết vì chúng ta tin
tưỏng rằng mình chỉ có một nhận thức, một ý thức trong cái sọ này. Không
khỉ nào ngờ rằng chúng ta có hai bán cầu não với hai cá tính hoàn toàn
khác biệt trong cùng một bộ óc đang tranh cãi nhau. Chỉ cần một chút
hướng dẫn là bạn có thể nhận ra dễ dàng.
Phần lớn chúng ta, ai cũng có lúc thấy: lý trí muốn làm thế này (não
Trái) mà trong tâm hay trong bụng (não Phải) muốn làm thế khác. Có người
thì: tôi nghĩ (não Trái) như vầy mà tôi cảm thấy (não Phải) như kia.
Còn ngưòi thì bảo: anh/chị sao mà dương tính quá (não Trái), hãy âm (não
Phải) chút xíu đi! Còn nếu bạn là học trò của trường phái Karl Jung thì
sẽ thấy “suy luận” (não Trái) đối nghịch với
“trực giác” (não Phải). Mà các Triết gia và Khoa học gia đều đồng ý là
trực giác lúc nào cũng đúng! Mục đích của tôi là giúp bạn biết rõ bạn sử
dụng não bộ nào nhiều; để biết mà quân bình, không còn quá khích, hoặc
biết khi nào nên thiên về Trái hay Phải.
Tôi nhận thấy hoạt động căn bản của não bộ Phải là tỏa chiếu sự an vui,
thanh tịnh và lòng yêu thương. Nếu chúng ta dùng nhiều thời gian trong
đời mình để sử dụng mạch thần kỉnh này ỏ não bộ Phải, thì An vui, Thanh
tịnh và Tinh yêu thương sẽ lan tỏa khắp mọi người, kể cả chúng ta; và
cuối cùng, ta sẽ có An vui, Thanh tịnh và Tinh yêu thương trên Mặt đất
này. Và đó là Niết Bàn, hay Cực Lạc mà Phật giáo nói đến. Cho nên khi ta
biết rõ phần não bộ nào đang được sử dụng để xử lý các dữ kiện thu nhập
từ bên ngoài, ta có nhiều chọn lựa để biết nghĩ, biết cảm, biết hành xử
sao cho thích hợp với hoàn cảnh cá nhân và với cộng đồng nhân loại.
Từ quan điểm của Tế bào thần kinh học, tôi đã vào được cảnh giới An lạc
trong tận cùng thâm sâu của ý thức não bộ Phải như đã trình bày, khi não
bộ Trái đã hoàn toàn bất động. Hai Tiến sĩ Andrew Newberg và Eugene
D’Aquily, nổi tiếng từ đầu thập niên này về nghiên cứu não bộ, đã giúp
tôi xác định những gì tôi nhận biết xảy ra trong bộ óc tôi. Dùng kỹ
thuật chụp ảnh SPECT (Phóng xạ Trung hòa đơn tử chiếu rọi ra màn hình),
các nhà khoa học này nhận diện được những tế bào thần kinh nào đang
trong tình trạng trãi nghiệm về tôn giáo hay tâm linh. Họ đã biết rõ
vùng nào ỏ não bộ đã giúp tôi đạt đến ý thức mà tôi cho là Một với vũ
trụ (Thượng đế, Niết Bàn, Cực Lạc).
Một cuộc thí nghiệm khác cũng được thực hiện với các nhà sư Tây Tạng và
các nữ tu khổ hạnh dòng Francisco. Những vị này được mời thiền định hay
cầu nguyện trong máy SPECT. Thí nghiệm cho thấy khỉ các vị này thiền
định tói mức độ cảm thấy sống trong Cực Lạc, hoặc cầu nguyện tới mức độ
thấy mình là một với Thượng đế, thì tế bào thần kỉnh của họ chuyển hoạt
động sang một vùng đặc biệt của não bộ Phải. Trước đó, hoạt động của
Trung tâm ngôn ngữ ỏ não bộ Trái ngưng hoạt động. Rồi đến vùng não Trái
nhận diện vật thể, không gian ba chiều và thời gian thứ tự cũng tắt
theo. Điều này cũng cắt nghĩa vì sao khi bị xuất huyết não, bán cầu Trái
chìm trong biển máu và ngưng hoạt động, thì tôi chỉ cảm giác tôi là
chất loãng và hòa mình làm một với Vũ Trụ.
CHƯƠNG 15
SỨC MẠNH TINH THẦN CỦA MỖI NGƯỜI
Tôi định nghĩa “trách nhiệm” là khả năng chọn lựa cách ứng phó trong một
hoàn cảnh nhất định đối với những dữ kiện bên ngoài, thu nhận được qua
các giác quan.
Những dữ kiện này có thể kích động nhanh và tạo ra phản ứng hóa học
trong cơ thể con người qua hệ thống Limbỉc và các “lập trình” ỏ não bộ.
Những độc tố tạo ra từ các phản ứng này xuất hiện và kéo dài chỉ trong
vòng 90 giây, rồi bị đẩy ra khỏ não bộ qua hệ thống tuần hoàn máu. Nên
ta có thể kiểm soát bằng cách dứt bỏ chúng được, thì tâm thần ta an vui
và cơ thể ít bệnh hoạn hơn.
Thí dụ: tức giận. Do các điều kiện bên ngoài, “lập trình” tức giận tự
động nổi lên một cách máy móc trong thần kỉnh não bộ. Không đầy 90 giây,
các độc tố hóa học tiết ra từ cơn giận tiêu tan vào hệ thống tuần hoàn
máu và bị loại khỏ cơ thể và phản ứng tự động “tức giận” ỏ hệ thống
Limbic cũng chấm dứt. Nhưng nếu có người vẫn còn giận dữ, là vì họ muốn
làm như vậy, như là một đặc trưng của cá
tánh họ. Họ giữ cho cảm giác tức giận vẫn còn “chạy vòng vòng” trong
mạch thần kinh liên hệ ỏ não thùy Trái, làm hại cho chính họ và khổ cho
mọi người xung quanh. Tương tự như vậy đối với các tình cảm vui, buồn
khác trong thất tình lục dục.
Cho nên bạn có thể kiểm soát và sửa mình để nhìn đời lạc quan, vui vẻ
hơn; với cái nhìn “ô, ly nước còn đầy tới nửa ly”, chứ không Phải “ôi,
ly nước đã cạn hết phân nửa rồi!”. Nếu bạn đến với người khác bằng sự
giận dữ, thì bạn có thể bị phản ứng lại bằng giận dữ và gây ra cuộc
tranh cải hoặc ấu đả (do não thùy Trái).
Hoặc người ta thấy buồn cười vì bạn quá trẻ con và họ cảm thương mà tha
thứ cho bạn (từ não thùy Phải). Khổ nỗi là phần lớn chúng ta chỉ phản
ứng theo bản năng, không biết mình có “sức mạnh tinh thần”, có khả năng
chọn lựa nên ứng xử thế nào trước mọi hoàn cảnh, làm sao vừa nhẹ lòng
mình vừa vui dạ người. Bỏi vì hệ thống Limbic trong não chúng ta có từ
thòi tiền sử. Thời đó người tiền sử đã sử dụng nó để “chạy trốn” cho
nhanh trước sức mạnh của thú dữ, của thiên tai; hoặc đứng lại mà đương
đầu bằng sức mạnh thể chất của mình. Ngày nay, đã khác. Ta bị thượng cấp
đối xử oan ức, làm hệ thống Limbic khỏ lên ‘tức giận”; nhưng ta không
thể chạy trốn hay dùng sức mạnh chống lại. Các hóa chất độc hại của cơn
giận tiết ra không tiêu tán được trong hệ thống tuần hoàn máu, trỏ lại
hại cơ thể ta.
Ngày nay với sự hiểu biết, ta không hoàn toàn xử sự theo bản năng của hệ
thống Limbic (não bộ Trái), mà là theo hiểu biết rằng mình có quyền
chọn lựa, có sức mạnh tỉnh thần để chọn lựa (não bộ Phải). Về lâu về
dài, bạn sẽ thấy cuộc đời của bạn vui hay buồn, sướng hay khổ, thành
công hay thất bại đều là kết quả của sự bạn chọn lựa.
Sau cơn bệnh, tôi thường để nhiều thì giờ suy nghĩ, nhận xét về bộ óc
con người và ngạc nhiên nhận ra nó thật kỳ diệu. Như Socrates đã nói:
“Cuộc đời không quán chiếu là cuộc đời không đáng sống”, tôi thấy không
còn sức mạnh nào đáng kể hơn khi biết mình có quyền năng chọn lựa sống
đời hạnh phúc,
không khổ đau. Chỉ là vấn đề “Nước đầy tới nửa ly”; hay “Nước cạn chỉ còn phân nửa” và biết khi nào Phải dùng não bộ Phải!
Con người, ai không gặp những hồi thất bại, nhũng lúc khổ đau? Nhưng từ
đó hãy rút ra bài học, rồi để chúng qua đi (ý thức của não bộ Phải).
Đừng giữ chúng chạy tới chạy lui trong mạch thần kinh não, như một đoạn
phim quay đi quay lại (ý thức của não bộ Trái). Cũng đừng tự mãi trách
mình “Phải chỉ…Có lẽ…”. Giống như đi nhầm đường mà ỏ đó lẩn quẩn và buồn
phiền. Dù biết vậy, thỉnh thoảng tôi cũng cho phép não bộ Trái nghênh
ngang, hống hách, tự cho mình khác biệt và tài giỏi hơn người, hăm hỏ
tranh luận giành phần thắng. Nhưng rồi phần lớn trường hợp, tôi tự thấy
mình khôi hài, lố bịch, nên tự
động kiếm cách giảng hòa, rút lui. Kinh như một nhà tư tưỏng Đông phương
có nói: “Thắng người Phải có sức mạnh thể chất. Thắng mình là nhờ sức
mạnh tinh thần”. Câu nói này rất đúng với khoa học não bộ ngày nay.
Với tôi, có lẽ vì là phụ nữ, rất dễ dàng khi hành xử “dễ thương” với mọi
người. Chứ thực tình thì khi sinh ra, không có ai mang theo sách chỉ
dẫn (như khi mua chiếc xe mói) để biết phản ứng với cuộc đời sao cho
Phải cách. Chúng ta chỉ là sản phẩm của cha mẹ và của hoàn cảnh. Nhờ ăn
học và cơn bệnh sống chết của não bộ vừa qua, tôi chọn con đường tương
thân tương ái của não bộ Phải từ đây; vì biết rằng ai trong chúng ta
cũng trên vai mang nặng những túi tình cảm tranh chấp, âu lo, hận thù,
ganh tị, ích kỷ, hẹp hòi di truyền sinh học từ thuỏ lọt lòng.
Tôi biết rằng tôi cũng có khỉ lầm lỗi, nhưng tôi không nhất thiết tự
mình mang mặc cảm là một kẻ tội đồ; và tôi cũng không coi những lỗi lầm
của bạn là vì cố ý nhắm vào tôi. Khuyết điểm của bạn, khuyết điểm của
tôi, mỗi người tự sửa lấy. Điều quan trọng là giữ tâm an vui và tốt bụng
với mọi người. Tha thứ cho người và tha thứ cho mình là điều nên làm
cho được. Nhìn đời phút giây nào cũng là phút giây
hoàn hảo là ta đang sống ỏ Niết Bàn, Cực Lạc rồi đây!
CHƯƠNG 16
SỰ AN LẠC TRONG TÂM HỒN
… Ưóc đến tương lai; để rồi cảm thấy khổ sỏ vô cùng vì không làm sao có
được những điều mong muốn đó. Chừng nào chúng ta ý thức được thực tế là
nên sống trong hiện tại, chúng ta s dễ dàng hơn đi vào mạch thần kinh
não bộ Phải, với lòng nhường nhịn, chia sẻ, thương yêu – tự xem mình là
một phần trong toàn phần, là những dương điện tử, âm điện tử và trung
hòa tử đang nhảy múa trong cùng
một vũ điệu siêu tuyệt – ta sẽ nhận chân được Hạnh phúc và An lạc trên đời.
Xã hội Tây phương đã gặp Phải khó khăn trong sự đi tìm chân hạnh phúc,
vì từ nhỏ đến lớn con người chỉ được huấn luyện sử dụng bộ óc Trái.
Phải biết bặt thiệp, biết tính toán, biết tổ chức, biết kế hoạch, biết
hơn chứ không được thua, biết cái Tôi là hơn hết. Nếu đạt được những
thành tích này, họ sẽ được tưỏng thưỏng, được ca tụng; nhưng họ không
bao giò cảm thấy được hạnh phúc.
Người Đông phương trong thế kỷ qua cũng vậy. Một số chạy theo nếp sống
Tây phương, bị Tây phương hóa nên cũng rất khổ sỏ; vì tuy có đầy đủ của
cải vật chất, nhưng không có hạnh phúc. Một người bạn thân của tôi, tiến
sĩ Kat Domingo đã có lần nói: “Giác ngộ không Phải là nhờ học thêm điều
gì mới lạ, mà là biết bỏ hết đi những gì đã học sai lầm!”.
Thật ra, trỏ về với não bộ Phải không Phải là vấn đề khó khăn. Bỏi vì
chúng ta thường sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc để tiếp nhận và
phân phối dữ kiện qua năm giác quan vào từ bên ngoài từng giây từng
phút; có nghĩa là lúc nào ta cũng tiếp xúc với não bộ Phải. Miễn là bạn
Phải học để ý đến những cảm giác vi tế đã xảy ra trong tâm thức hay cơ
thể của bạn, thì bạn có thể lập lại mạch vận hành
của thần kinh đó khi bạn muốn.
Phần tôi, bài học đầu tiên khiến tôi nhận biết An lạc ỏ trong tâm là
ngay từ buổi đầu bị xuất huyết. Tôi nhận ra mình là một phần trong đại
thể của vũ trụ – nơi đó nguồn năng lực miên viễn chảy vào các phân tử tế
bào ỏ thân thể. Biết được như vậy, tôi thấy mình thật an ổn. Làm sao
tôi có thể “chết” được khi tôi là một thành phần của cái toàn phần?
Trong khi não bộ Trái cứ cho biết rằng tôi là một cá nhân
riêng biệt, mong manh và dễ “vỡ”, não bộ Phải cho thấy rằng, từ bản thể, tôl vốn “tồn tại” mãi với thời gian!
Và như vậy, mặc dù tôi đã mất đi một số tế bào của cơ thể và khả năng
nhìn thế giới bên ngoài như là không gian ba chiều, phần năng lượng đó
của cơ thể tôi không mất mà chỉ là trỏ về hợp lại với biển thanh tịnh và
an vui của vũ trụ. Nhận thức này làm cho tôi vô cùng biết ơn sự hiện
diện ỏ cõi đòi với phần tế bào còn khỏe mạnh trong tôi.
Muốn có được phút giây hiện tại, bạn Phải tập chậm lại đầu óc suy nghĩ
của mình. Đầu óc con người lúc nào cũng suy nghĩ, không thể trống không.
Hết nghĩ chuyện nọ, đến chuyện kia. Hết chuyện đã qua, đến chuyện sắp
tới. Chuyện làm được và chuyện không chắc có thể làm được. Cứ như vậy mà
bực bội, gắt gỏng, thất vọng, chán nản. Năng lực tiêu tán, tâm tình khổ
sỏ, thần sắc bệnh hoạn.
Bộ óc Trái làm việc như vậy đó. Bạn hãy tập nói chuyện và ra lệnh với
nó. Có khi bạn nên cảm ơn nó với nụ cười: Cảm ơn kế hoạch này tốt;
chuyện này làm Phải. Có khi bạn Phải nghiêm khắc, chau mày với nó, như
với đứa trẻ ngỗ nghịch: tôi không thích nghe hay thấy chuyện này xảy ra
đâu; đừng bàn tới nữa. Và cho nó 90 giây để ngừng. Nói rõ hơn, khi tức
giận ai, cơn tức giận chỉ có trong 90 giây, rồi chuyễn sang đề tài khác
hoặc bỏ đi chỗ khác thì sẽ không còn nữa.
Ngay bây giò khi bạn đang đoc sách này, để ý xem óc Trái bạn còn dang có
lệnh gì. Vợ dặn đi chợ, con đòi đi chơi, bạn bè rủ đi giải trí? Vậy là
bạn đã không sống trong hiện tại. Kết quả là đọc sách chẳng ra đọc sách.
Không chuyện gì ra chuyện gì. Không đọc sách thì không có thêm hiểu
biết; không nhớ lời vợ thì gia đạo bất hòa; không chơi với con thì khó
mà dạy dỗ chúng; không giao tiếp bạn thì cuộc sống hạn hẹp. Nhưng việc
nào Phải có thì giờ của việc ấy. Sống trong hiện tại là biết làm chủ
cuộc đời mình, làm cho nó thành đơn giản, có ý nghĩa và nhờ đó mà tâm
được an lạc.
Ăn, uống, làm vệ sinh, hít thỏ trong ngày, họp mặt buổi tối với gia
đinh… là một vài ví dụ giúp bạn trỏ về sống trong hiện tại. Khi ăn, chỉ
biết có ăn; không suy nghĩ chuyện gì khác. Nếu khi ăn ỏ nhà, nghĩ đến
công ơn vợ đã bỏ ra nấu miếng ăn cho vừa khẩu vị chồng, thì đã thấy hạnh
phúc. Còn ăn ỏ tiệm thì nghĩ tới công ơn của bao nhiêu ngưòi đã làm ra
món ăn và biết bao nhiêu tỉ người trên thê’ giới giờ này
không được miếng ăn no bụng, mà cảm thấy mình hạnh phúc biết bao nhiêu. Đó là ví dụ bạn dùng não bộ Phải.
CHƯƠNG 17
CHĂM SÓC NGÔI VƯỜN TÂM
Tôi học được rất nhiều từ trận Xuất huyết não đến nổi tôi cảm thấy đã vô
cùng may mắn trãi qua Tai biến này. Nhờ đó, tôi đã được dịp chứng kiến
những hiểu biết mới mẽ từ não bộ của tôi; mà nếu không, tôi không bao
giờ tưỏng tượng được rằng những điều này là sự thực. Tôi rất biết ơn
Thượng đế về những soi sáng này.
Và những hiểu biết này không Phải ích lợi riêng cho tôi, mà tôi còn hỉ
vọng nó sẽ ích lợi cho mọi người, nếu ai cũng biết làm chủ và chỉ đạo bộ
óc của mình, để được sống An vui và Hạnh phúc.
Tôi cũng cảm ơn bạn đã kiên nhẵn theo dõi cuộc hành trình gian nan của
tôi qua sách này. Tôi thành thật hy vọng bất cứ hoàn cảnh nào đưa đẩy
bạn tới việc đọc quyển sách này, sẽ giúp bạn hiểu hơn sinh hoạt của não
bộ mình và người khác.Và tôi tin rằng não bộ Phải của bạn sẽ giúp quyển
sách này được chuyền tay sang người khác để họ cùng có được ích lợi.
Einstein ngày xưa đã nói: “Tôi Phải cố gắng bỏ cái tôi là, để trỏ thành
cái tôi sẽ nên”. Tôi đã Phải học một cách vất vả mới hiểu được rằng giá
trị thật của con người tôi như thế nào là tùy thuộc vào sự trong sáng
của mấy mạch thần kinh não bộ. Ý thức tôi có được là do những tế bào li
tỉ mầu nhiệm hợp lại mà thành. Nhờ sự mềm dẽo và dễ uốn nắn của tế bào
não bộ, mà chúng có thể thay đổi các cực tiếp xúc tạo thành các mạch
thần kinh mới, khiến cho tôi và bạn có thể thay đổi tánh tình bằng sự
thay đổi cách suy nghĩ và chọn lựa nên sống với cách thế ra sao trên quả
đất này. Và may mắn thay, chúng ta chọn cách sống thế nào hôm nay, ngày
hôm qua chúng ta chưa tiên đoán được. Vì vậy mà chúng ta luôn cần đọc
sách và suy nghĩ.
Tôi xem Tâm của tôi là mảnh vườn thiêng liêng mà đất trời đã tin tưỏng
và ban cho. Tôi có nhiệm vụ Phải chăm sóc nó thật chu đáo. Chỉ có tôi
với những DNA riêng biệt và hoàn cảnh sống cá nhân tô điểm mảnh vườn Tâm
này. Mọi người cũng vậy. Nó có thể là mảnh vườn hoang dại, hay đầy hoa
thơm cỏ lạ.
Trong mấy mươi năm đầu, tôi không có gì hay để tô điểm cho mảnh vườn,
không có gì hay lắm đối với các mạch thần kinh vận hành trong bộ óc, bỏi
vì tôi chỉ là mảnh đất hoang với hạt giống của người đi trước. Nhưng
nhờ vào phước báu, di truyền DNA đã không còn làm chủ và độc đoán chỉ
huy. Và nhờ sự uyển chuyển của các tế bào não bộ, sức mạnh của ý chí và
sự tiến bộ thần kỳ của Y học đã làm thay đổi hẳn hiểu biết và đời sống
con người.
Bất kể mảnh vườn tôi thừa kế như thế nào, khỉ mà tôi đã ý thức rằng tôi
có trách nhiệm Phải chăm sóc và có sức mạnh Tinh thần để chọn lựa, thì
tôi sẽ chọn và nuôi dưỡng những hoa cỏ nào tôi muốn trồng, những mạch
thần kinh nào tôi muốn dưỡng; và loại bỏ hoàn toàn những thứ không cần
thiết và vô ích. Biết rằng những cỏ dại mới lên mầm thì dễ nhổ bỏ, nhưng
dầu là những dây leo quấn quít chằn chịt lâu ngày mà nếu chúng ta không
vun phân tưới nước, chúng sẽ tàn rụi theo thời gian.
Xã hội có lành mạnh hay không là do những bộ óc tạo thành xã hội ấy có
lành mạnh hay không. Cứ nhìn một cộng đồng mà các bộ óc chỉ ưa thích ma
túy, rượu mạnh và sắc đẹp, thì đủ biết cộng đồng đó sẽ đi đến đâu và như
thế nào.
Gandhi có nói một câu thật đúng: “Chúng ta Phải là chất men để thay đổi
một xã hội khi chúng ta muốn xã hội đó thay đổi”. Tôi nhận thấy ý thức
của não bộ Phải của tôi rất muốn cho tất cả chúng ta có một bước nhảy
vọt bằng cách chỉ bước qua bên Phải, để tinh cầu này biến thành nơi của
yêu thương và an bình như mọi người hằng mơ ước.